Thứ Năm, 16 tháng 11, 2023

DOAN TRUONG VO THANH --HAU TRUYEN KIEU-- Pham Thien Thu

Đoạn Trường Vô Thanh





Phạm Thiên Thư





Đoạn Trường Vô Thanh





NẾN HỒNG xuất bản 1972





Đoạn trường vô thanh của Phạm Thiên Thư được coi là tập truyện Hậu truyện Kiều công phu nhất cho đến nay, tác phẩm được ra mắt vào năm 1969, bao gồm 3290 câu lục bát, và đã được giải thưởng văn học toàn quốc (miền Nam Việt Nam) năm 1973.



I. Xưa là giọt lệ 

Đoạn trường 
Sổ gói tên hoa 
Xưa là giọt lệ nay là hạt châu
 

Vô thanh như tiếng reo ca bát ngát của nhật nguyệt khiến giọt lệ Vương Thuý Kiều trở thành sợi mây hồng cất cánh vèo bay qua tài mệnh nhị tướng kết nên hạt minh châu viên xá lợi của bậc nguyện vào địa ngục là thái độ tịch nhiên sấm sét của người vác thập tự trong cuộc đoạn trường là vòm trời xanh biếc Việt tính khai mở sau thi hào Nguyễn Du chiếc cầu hư ảo khói sương đưa giả tướng ngôn ngữ rã rời trong một vài trống canh mua vui dưới ngọn Hồng Lĩnh trên ba ngàn dòng thơ cô đọng cỏ hoa sau ba mươi năm tơ tưởng Thuý Kiều và thưa: Những hạt lệ đã nổi cánh thiên hương. 

25-7-1972 
Phạm Thiên Thư
 


Nhuận sắc 
Đoạn Trường Vô Thanh
 

Một đêm nằm mơ, ở đất Tân Bình - gặp Người Đẹp tặng tấm gương soi và cây bút. Tỉnh dậy, mới biết ấp trang Vô Thanh trên ngực mà ngủ quên - Tự nghĩ mặt mày mỗi ngày còn phải rửa lại, huống chi là hư truyện đã viết cách nay trên hai mươi năm - đọc lại lắm chỗ chẳng được như lòng... Nên đêm nay, khêu đèn dầu hao, tựa mảnh trăng tròn hơn ngoài cửa, mượn Người Đẹp ngọn ý bút, nhuận sắc lại Vô Thanh, cốt để tự soi mình vậy - Nay thêm đôi dòng tạ tội. 

21-4-1992 
Phạm Thiên Thư


Bức thứ nhất: 
(Giãi bày tâm thức, 
Thuý Kiều sau cuộc đoạn trường) 


Lòng như bát ngát mây xanh 
Thân như sương tụ trên cành Đông mai 
Cuộc đời - chớp loé, mưa bay 
Càng đi, càng thấy dặm dài nỗi không 
Thân Tâm Bệnh - nghiệp trần hồng 
Lênh đênh trầm nguyệt, bềnh bồng phù vân 
Giam trong Tài, Mệnh, Giả, Chân 
Trăm năm hồ dễ một lần bay cao 
Đau lòng chuốt tiếng đàn nao 
Năm cung nước chảy lại chao phận mình (10) 
Đời Kiều trải mấy nhục vinh 
Ngã, Nhân đã vượt, thế tình đã qua 
Đoạn Trường sổ gói tên Hoa 
Xưa là Giọt Lệ - nay là Hạt Châu


II. Sớm tếch bến hồng 

Bức thứ hai: 
(Thực chất tình yêu Kim, Kiều) 



Đền nhau tơ tóc duyên đầu 
Ba năm – trăng dãi hoa dầu thế thôi 
Ý người – sóng nổi, mây trôi 
Chốn xa tìm đến, đến rồi - lại đi 
Hiên Thu lần lữa cầm kỳ 
Chén quỳnh lạnh rượu, câu thi biếng vần (20) 
Trước còn nể nguyệt ươm Xuân 
Lần hồi lối cũ sương ngần hạt sa 
Kể từ hương lửa một nhà 
Phôi pha - thì nhớ, đậm đà - thì quên 
Kiều xưa như suối qua triền 
Rêu khô lệ đợi, trăng phiền dáng theo 
° ° ° 
Ngựa dong, phố sớm, thôn chiều 
Lang thang vó rụng, tiêu điều bụi bay 
Chàng Kim dường tỉnh dường say 
Mây xuôi nhớ tóc, hoa lay nhớ người (30) 
Mười lăm năm lại đơm tươi 
Duyên may, bọt sóng chim trời gặp nhau 
Lan xưa in đáy dòng sầu 
Trách chi con suối nhạt màu thời gian 
Trăng nao man mác tơ đàn 
Chừ nghe hờ hững đôi làn khói bay 
Lò trầm ai chửa ngừng tay 
Mà sao hơi lạnh như ngày mưa thưa 
Vui giờ nuối cái buồn xưa 
Chút gì để nhớ, để chờ, để không... (40) 
Tưởng đàn nối nhịp tơ đồng 
Thuyền trăng sớm tếch bến hồng bay lên 
Chơi vơi trong cõi diệu huyền 
Đời Kiều dệt một trường thiên tuyệt vời


III. Ruổi rong nhật nguyệt 

Bức thứ ba: 
(Vẽ cuộc du sơn, Kiều nhìn đôi hài của mình, 
ngộ ra mọi cuộc tìm kiếm bi đát của kiếp người) 



Nửa Thu nhân tiết đẹp trời 
Non nghiêng - bút dựng, mây dời - mực sa 
Thênh thang cáng gấm, tàn hoa 
Chàng Kim ngựa trước, áo nhoà sắc cây 
Một nhà lên núi xem mây 
Rèm thưa hoa động, dấu giày sương đơm (50) 
Kiệu dừng bãi núi cỏ thơm 
Lên cao mới biết là đường quanh co 
Giải sông xanh vẳng câu hò 
Lau vàng thấp thoáng cánh cò về trưa 
Bà Vương chỉ áng mây đưa: 
Chân trời mờ mịt, quê xưa chốn nào 
Cuối thu hẳn chớm bông đào 
Vườn ta – ai biết giờ vào tay ai 
Thân già như hạt sương mai 
Cố thôn liệu có còn vài đêm huyên (60) 
Vân thưa: Trăm nhớ ngàn phiền 
Nhắc chi chuyện cũ, hồ quên bấy ngày 
Kim rằng: Sương nổi hoa lay 
Cố hương tưởng gợn gió may rùng mình 
Lời xưa "Đất dưỡng, trời sinh" 
Không ơn ngô lúa, cũng tình trầu cau 
Kiều nghe, môi điểm khoé sầu 
Vời trông cái nhạn về đâu tít mù 
Rừng vàng hiu hắt hơi Thu 
Ngàn hoa vẳng tiếng chim gù thiết tha (70) 
Đầu sông dằng dặc sóng xa 
Chèo ai nhẹ lướt la đà khói giăng 
Tay Kiều rẽ lối sương băng 
Mắt nàng ẩn nửa viền trăng dõi buồn 
Đá triền tựa ngó mây tuôn 
Bông may cỏ úa nẻo buồn hắt hiu 
Lưng non nhàn nhạt nắng chiều 
Trông hài mình - nhớ bao nhiêu dặm trường 
° ° ° 
Tưởng Từ - yên ngựa thanh gươm 
Ruổi rong nhật nguyệt, bốn phương là nhà (80) 
Tưởng mình - thưở lỡ chân sa 
Cành nghiêng, suối nhận kiếp hoa lạc loài 
Kim thì lẽo đẽo thiên nhai 
Mây bay gió thoảng, dấu ai mà tìm 
Mịt mờ cồn cát chân chim 
Lòng riêng hỏi mảnh trăng im cuối đường 
Rã rời bao dấu hài vương 
Gặp chi trong cuộc vô thường mà mong 
Cõi sầu sao rộng mênh mông 
Tìm đâu một chốn bụi hồng dung thân (90) 
° ° ° 
Chợt nghe tiếng trẻ trong ngần 
Trông lên Tiểu Nguyện đang lần bước hoa: (° ) 
Con tìm bá mẫu gần xa 
Bây giờ mới biết mẹ qua chốn này 
Kiều vời, bảo: Nguyện ngồi đây 
Con ơi! Thử nắm bóng mây xem nào 
Trẻ reo: mẹ bắt được sao? 
Nàng cười, ôm Nguyện nghiêng vào vòng tay 
Chẳng ai bắt được mây bay 
Đêm đêm lơ lửng, ngày ngày lang thang (100) 
Khác chi cánh bướm nhuỵ vàng 
Tìm bay vơ vẩn dưới tàng hoa thơm 
° ° ° 
Thôn xa giải khói nhoà hơn 
Tà dương thẫm mảnh thâm sơn cuối trời 
Thoảng đưa tiếng gọi tiếng mời 
A hoàn tìm đến, mở lời cung nghinh 
Bẩm thưa: Quan sắp đăng trình 
Thỉnh bà lên kiệu, về dinh kịp đoàn 
° ° ° 
Sông Thu uốn lọn tơ vàng 
Bèo xuôi biêng biếc, sóng vang dập dìu (110) 
Chim di xao xác đường chiều 
Dường tha lác đác ít nhiều hạt sương 
Non nghiêng vách tía trời hường 
Sau lưng cửa núi mây vương mịt mờ


IV. Bông chờ bên sông 

Bức thứ tư: 
(Kiều ngồi tựa hiên trăng mơ thấy 
bay lên như cánh hạc trời 
trong âm đàn chưa dứt tắt của lòng nàng). 



Kiều ngồi ngó mảnh trăng tơ 
Chùm sao Thu nở bông chờ bên sông 
Mênh mang dặm biếc cồn hồng 
Cúc tươi cánh nguyệt, liễu lồng tơ mây 
Phòng Thu trầm biếng hương gây 
Vườn trăng thêu nhạt dấu hài lối hoa (120) 
Côn trùng ri rả âm ba 
Gió đêm lãng đãng mưa ngà tơ phơi 
Dường trong hiu hắt Thu hơi 
Thôn sương chầy nguyệt cũng lơi nhịp sầu 
Đò đưa ai hát qua cầu 
Tiếng ca cùng nước sông mau lạnh lùng 
Lầu mai từ thưở tơ chùng 
Tay lan khép gió, năm cung bụi dày 
Đêm đêm nhớ ngón tơ này 
Đã từng đưa lá thuyền say sóng nhồi (130) 
Mà lòng âm hưởng chưa thôi 
Những khi quạnh quẽ - bồi hồi sóng thiêng 
Cây dài bóng xế nghiêng nghiêng 
Kiều ngồi xoã tóc trên thềm hương đưa 
Có trăng chia sẻ đời thừa 
Tình riêng - trăng tỏ bây giờ không trăng 
Nào đêm lối đẫm vườn băng 
Nào lầu khoá nguyệt giam hằng, thở than 
Nào Từ cưỡi gió quan san 
Mảnh trăng tri kỷ chưa tàn lòng nhau (140) 
Từ ngày nguyền bỏ tơ đau 
Trăng cài liễu tưởng - phím sầu quạnh thêm 
° ° ° 
Kiều đang chìm lắng nỗi niềm 
Dế im tiếng gọi - Kim thềm dáng ai 
Áo nào nguyệt giải sương phai 
Ngập ngừng bên giậu, hoa cài gió quanh 
Vườn sao lại rẽ hài xanh 
Riêng thềm tựa mộng, thiếp cành hoa xinh 
° ° ° 
Gió đưa phảng phất hương quỳnh 
Ướp con bướm mộng vô tình lại đây (150) 
Trăng vàng chênh mái hiên Tây 
Khoé tiên dìu dịu, bóng cây vật vờ 
Duới hoa thấp thoáng giọt tơ 
Ánh sao le lói vương bờ tóc bay 
Mi Kiều rũ nét lan say 
Thiếp đi mộng thực phương này là đâu 
° ° ° 
Lên non mây trắng lợp đầu 
Vờn bay theo ngọn cờ lau xạc xào 
Hai bên thắm lý tươi đào 
Kiều như cánh hạc bay vào phù vân (160) 
Cỏ vàng lấp mấy dòng chân 
Sáo tiên hoà với, đàn thần du dương 
Bỗng dưng biêng biếc non suơng 
Thành cây cầu lửng mây vương mịt mờ 
Trước sau chẳng bến chẳng bờ 
Bước chân theo tiếng trúc tơ dặt dìu 
Bâng khuâng trăm nỗi lòng Kiều 
Như dòng thơ nhẹ phiêu diêu ngang trời 
Chừng đâu sương cuộn mây dời 
Chừng đâu hạc ruổi hoa rơi mấy từng (170) 
Lênh đênh lả cánh lan rừng 
Nửa đêm chợt tỉnh ngó vừng trăng nghiêng 
Lòng Kiều mang mác nỗi riêng 
Nào hay thoáng mộng ứng điềm chi đây 
° ° ° 
Chân rời hiên nguyệt mái Tây 
Lò trầm khơi lửa bao ngày than trơ 
Lặng nhìn sợi khói ngẩn ngơ 
Còn leo lên ngọn mây mờ nữa sao 
Cây cầu lửng giữa trăng sao 
Phải chăng - cửa ngõ đi vào huyền căn (180) 
° ° ° 
Tiếng tơ kết kén ôm tằm 
Biết đâu hoá bướm - trăm năm một lần 
Nhớ nàng ứng mộng đêm xuân 
Giục nhau trả hết nợ nần bụi vuơng 
Sông xanh giở sổ đoạn trường 
Sóng đàn ơi, trả phím hường nổi trôi 
Tưởng đâu xác dạt sóng nhồi 
Hồn theo nước chảy bồi hồi tình xưa 
Đâu ngờ cái số hạt mưa 
Còn dài như một âm thừa chưa nguôi (190) 
Tưởng cung nguyệt trổ hoa tươi 
Nào hay mười ngón nước xuôi bẽ bàng 
Từ đêm vắng bặt tơ đàn 
Nợ nần ngày cũ chưa tan sợi nào 
Mông Thu phơ phất hiên đào 
Cầu mây còn bắc lối vào sông trăng 
Lụa ngà thẫm lệ hoen khăn 
Gà đâu tiếng gáy đã rần ngõ hoa


V. So dây sóng gợn 

Bức thứ năm: 
(Kiều lại dùng đàn giải buồn, thì Kim Trọng 
tới thăm kể về cái chết kiên cuờng của một 
dư đảng Từ Hải với cây đàn đeo bên người) 



Tơ chùng tưởng cuốn mưa sa 
Hiên văn khép mở phên hoa khói trầm (200) 
Bao năm vùi giữa cát lầm 
Như cành sen trổ trong đầm hạ xanh 
Giờ Kiều lại nối âm thanh 
Thử đem sương gió tựu thành cung dây 
Tiếng đàn rã liễu rời mây 
Ngón tay dã hạc vờn bay dặt dìu 
Hai hàng lau lách đìu hiu 
Đồi phong lá gọi bóng chiều xác xao 
Hạt đàn tấm tức nao nao 
Suối tuôn mạch đá đau bào lòng non (210) 
Lơ thơ hoa trải đường mòn 
Bâng khuâng ráng đỏ theo con nhạn về 
Năm cung da diết đê mê 
Nắng hoen thềm phấn, mây kề song hương 
Ngón cong - đàn trổ nụ hường 
Ngón xuôi - tơ rụng, hoa vương mấy dòng 
Bước đàn cao thấp long đong 
Dư ba tóc biếc mơ mòng liễu xanh 
Lòng nào thoảng khói mong manh 
Lệ rơi ánh mắt tan tành sầu oan (220) 
Lúc thì như điếng, như tan 
Lúc thì phiêu lãng như làn trầm bay 
Hoá thân vào mấy cung dây 
Lửng lơ mây nhạc, vơi đầy dòng thơ 
° ° ° 
Chàng Kim giải mũ phất phơ 
Khi chau ngàn liễu, khi chờ non trăng 
Tiếng đàn im bặt dòng băng 
Sân ngoài chàng mới xin rằng: Tự nhiên 
Tóc vương tay nhuỵ băng nguyên 
Khoé môi khép nép nửa viền mận tươi (230) 
Kiều thưa: Mấy tiếng tơ lơi 
Tưởng đâu dừng phím như lời nguyền xưa 
Lòng riêng chưa tắt âm thừa 
Chiều nay lại rũ tiếng mưa giang hà 
Mải mê nào biết đâu là 
Nhóm hương cung thỉnh lên nhà thưởng âm 
° ° ° 
Kim rằng: Thăm gác Mai Trầm 
Dưới hoa tơ vẳng sương thầm hạt say 
Mái Đông tìm ghé nơi này 
Bên thềm nghe vẳng tơ bay dặt dìu (240) 
Mà sao hiu hắt muôn chiều 
So tơ xưa lại tiêu điều sầu hong 
Hay ta đòi đoạn việc công 
Chiều nay nghe thoáng nên lòng cảm ra 
Xin nàng thêm khúc tài hoa 
Thử xem thanh ứng có là khác hơn 
° ° ° 
Hương trà đôi chén khay sơn 
So dây sóng gợn lòng đờn lại tươi 
Hồn xanh xanh ngắt da trời 
Hoa Thu não nuột rung mười ngón son (250) 
Nửa cung ngơ ngác trăng non 
Nửa cung nắng quái sông còn vàng phai 
Chợt nghe Tiểu Nguyện reo ngoài: 
"Đàn chi khiến nở thêm vài ngọn bông!" 
Âm thừa gờn gợn mênh mông 
Ngoài song thấp thoáng bóng hồng Thuý Vân 
Cuối vườn cỏ úa, lui chân 
Dắt con, chẳng dám cho gần dư ba 
° ° ° 
Dâng chàng thêm một tuần trà 
Đèn khêu chênh mảnh gương ngà mái thơ (260) 
Kiều thưa: Vụng rối cung tơ 
Có buồn quân tử - xin nhờ lượng cao 
Từ đây dù có thế nào 
Tiếng đàn lại để rơi vào nguôi quên 
° ° ° 
Kim ngăn: Điều ấy chẳng nên 
Vì ta bao mối ưu phiền đảm đương 
Sáng nay ngồi trực công đường 
Trọng hình xử phạt những phường bất nhân 
Từ khi đất nổi sóng thần 
Hiển dương thánh đức yên quân bạo tàn (270) 
Bốn phương thành vững dân an 
Giặc xưa lòng núi đáy hang ẩn mình 
Như sương tan dưới bình minh 
Trừ gian cứ việc gia hình thẳng tay 
Huyện đường buổi sáng hôm nay 
Loạn quân có một tên này - vì đâu 
Trơ trơ lưng thẳng – nghênh đầu 
"Rằng: Tà, Chính - để mai sau sẽ bàn!" 
Sau lưng đeo một cây đàn 
Dường như kỷ vật còn mang bên người (280) 
Nói rồi, miệng ứa máu tươi 
Mắt trừng uất khí, gã cười như điên 
Khiến người nghe rợn ốc lên 
Cười xong thì xác đổ liền - Kiên trung 
Rõ là cái chết anh hùng 
Khiến lòng ta mãi vô cùng xót xa 
° ° ° 
Kiều nghe rời rã tay hoa 
Rưng rưng đặt chiếc tỳ bà cảm thương 
Nàng thưa: Quả chuyện lạ thường 
Khác chi da ngưa sa trường bọc thây (290) 
Những trang nghĩa sĩ xưa nay 
Ngại gì sinh tử chuyển xoay bụi hồng 
Rượu thề bát máu pha chung 
Thì trăm năm nguyện tấm lòng trăng soi 
Đàn kia xin được lần coi 
Dám nhờ quân tử cho đòi đưa sang 
Hẳn nơi động biếc lau vàng 
Tơ đàn ai đó còn vang vọng lời 
Gật đầu, chuyện dễ như chơi 
Nữa đây ta sẽ sai người đem dâng (300) 
° ° ° 
Chuông sương ngân vẳng mấy tầng 
Gió lay dầu dãi một vầng hoa hương 
Tiễn chàng cỏ lục vườn sương 
Sao bay dòng tóc, lá vương dấu hài


VI. Vương mấy tơ đồng 

Bức thứ sáu: 
(Kiều mươn cây đàn xem - thì chính là cây đàn của 
Từ Hải - còn mang dấu khắc bài thơ cảm tác của nàng, 
nhân một đêm nghe tâm sự của Từ về cây đàn 
của Trần Nguyện Mai - người yêu đã khuất của chàng 
ở đất Châu Phong (Việt Nam) - và qua cây đàn này, 
Từ Hải cũng được một Thiền sư dạy lẽ Vô Thanh) 



Đèn khêu, cửa khép, ai hoài 
Trầm thơm lò cũ, vắn dài hàng ngân 
Đàn ơi! Tiếp tục tầm Xuân 
Ngờ đâu có lúc quây quần ánh trăng 
Còn dây tơ buốt lòng băng 
Tìm đâu một cánh chim bằng đã qua (310) 
Còn đây gỗ bạc trục ngà 
Theo ai sương sớm giang hà những xưa 
Còn dây xào xạc cung mưa 
Đàn ơi kim cổ không bờ cách ngăn 
Một chùm sao biếc hiên văn 
Theo tay nhật nguyệt Kiều lăn hạt sầu 
Thơ nàng - Từ khắc đôi câu 
Bây giờ dấu kiếm còn sâu bụi làn 
Nhớ người yên gió quan san 
Vó tung chuyển đất, tiếng ran lệch trời (320) 
Một hôm mắt nộ khí ngời 
Ầm rung giọng sấm tột vời chí cao 
Giận phường ô lại cường hào 
Đùng đùng bão nổi, ào ào mây đi 
Thanh gươm mở rộng biên thuỳ 
Yên dân riêng cõi, triều nghi rỡ ràng 
Cờ mây rợp, mặt trời vàng 
Sao rung kiếm động, rừng vang hịch truyền 
Rộng cho hoa cỏ truân chuyên 
Quân cơ trướng gấm đòi phiên dự phần (330) 
Nhớ đêm tạm gác việc quân 
Nhìn cây đàn cũ, hỏi dần duyên do 
Tơ chùng, trục bụi không so 
Gỗ phai màu nắng - dậy cho lẽ nào 
Dù trong muôn trận guơm đao 
Đàn theo yên ngựa, ra vào như không? 
Có chi vương mấy tơ đồng 
Gửi cây đàn cũ - lòng mong đáp đền 
° ° ° 
Từ rằng: Hận chửa nguôi quên 
Tấm thân còn đó, lời nguyền sao tan (340) 
Vời trông đất cũ mây ngàn 
Người xưa gửi nắm xương tàn khe sâu 
Anh linh hoà ánh tinh cầu 
Chừng nghe cây cỏ phai màu ngoài song 
° ° ° 
Ta từ quê cũ Châu Phong 
Nếp nhà thư kiếm, Lạc Long dõi nguồn 
Xuân xanh mười tám triêu dương 
Thánh hiền chí vững, cung gươm tài lừng 
Sơn hà - một đẫy sau lưng 
Quyết thanh nội loạn, quyết trừng ngoại xâm (350) 
Lửa hờn rèn chí nung tâm 
Anh em tìm chốn sơn lâm dựa mình 
Cõi biên vùng vẫy thân kình 
Cờ toan mở gió triều đình một phương 
Luỹ đồn rải rác non sương 
Chiêu binh nghĩa dũng, liệu đường tiến quân 
° ° ° 
Duyên trời gặp một giai nhân 
Cũng dòng thanh khí là Trần Nguyện Mai 
Chí nàng toan mở cõi ngoài 
Đèn chong gối sách, gươm mài ánh sao (360) 
Dặm hồng vó bụi tung cao 
Tóc xanh mây hạ, má đào hoa ban 
Nặng vì Dân, Nước - lo toan 
Lược Thao cùng với Thơ, Đàn sánh đôi 
Khi ngày điều trận ven đồi 
Khi đêm xướng hoạ, bồi hồi cầm thanh 
Hai ta mở cõi dựng thành 
Lòng người những muốn, trời xanh chẳng chiều 
Một phen binh giáp tiêu điều 
Vó bay theo vó, ngựa liều dặm băng (370) 
Giặc như lớp lớp mây giăng 
Phá tan đồn trại, san bằng luỹ tre 
Gươm vung - sấm giựt, chớp loè 
Hết xuyên bão nổi, lại đè sóng cao 
Song song gái kiệt trai hào 
Rừng gươm tên gió ra vào hai ta 
Mở đường máu quyết thoát ra 
Gió tan, hẹn dấy phong ba lại ngày 
Vó tung vượt mấy trùng vây 
Máu loang chân ngựa, non thây chật đồng (380) 
Cánh chim chưa thoát khỏi lồng 
Ngại ta chia trí, bận lòng ái ân 
Trao đàn lại, giữa vòng quân 
Vực sâu gieo nhẹ tấm thân tự tồn 
Sói lang còn ngẩn ngơ hồn 
Xuyên mây tiếng thét dập dồn giặc lui 
Dựng bờm ngựa cũng bừng vui 
Ầm ầm gió lớn cuộn vùi cỏ khô 
Núi giàn thế hiểm lô xô 
Một thân ngựa đạp trận đồ mà ra (390) 
° ° ° 
Yên dừng biên giới ngã ba 
Thanh gươm bốn biển không nhà - về đâu 
Năm ngàn nghĩa sĩ lạc nhau 
Tình duyên thoảng đã qua cầu gió bay 
Bốn phương biêng biếc ngàn mây 
Dường như thừa một thân này chẳng dung 
Nửa toan trở kiếm tranh hùng 
Nửa toan tìm chốn núi rừng tụ quân 
Cây đàn trên ngựa - phân vân 
Bốn dây tay chợt buông ngân tiếng hờn (400) 
Tiếng chi thác đổ mây vờn 
Chừng nghe kiếm gãy xanh rờn lửa reo 
Tiếng chi suối le tuôn theo 
Chừng nghe sương tụ, gió heo hút trời 
Chợt lưng non hiện bóng người 
Tay nương Thiền trượng, tới nơi, giật mình 
Thương nàng vì nước hy sinh 
Ta đang thiếp mệt, tâm tình nát tan 
Nhà sư cất tiếng hỏi han: 
Ai kia ôm mối đoạn tràng đi đâu (410) 
Vừa nghe như tỉnh lòng sầu 
Xuống yên thi lễ, cúi đầu tỏ thưa 
Thiền sư cười đáp: Ta chờ 
Đã lâu, mới vẳng một tơ não nùng 
Khác gì trống nổi trăng rung 
Khác gì nhỏ lệ anh hùng dưới sao 
Chí người như cánh chim cao 
Lạ thay! Lòng lại giam vào hữu thanh 
Cuộc đời - sương thoảng, mây nhanh 
Có Không - hạt móc đầu cành nhẹ rơi (420) 
Bao nhiêu đương thức loài người 
Che đi nguyên tánh toả ngời tự thân 
Muốn xoay chuyển lại cuộc trần 
Phải đồng sức mạnh toàn dân vẫy vùng 
Tay kia chẳng lướt năm cung 
Cho dâu biển trổ muôn trùng trái hoa 
Diệu hành - là tiếng Không Ta 
Không thanh âm ấy mới là âm thanh 
Dậy rồi, vóc hạc bay nhanh 
Viền trăng vô tướng đầu cành trượng treo (430) 
Lòng ta gió bão tan theo 
Mây hồng phất phới trên đèo hào quang 
Yên sương buộc chặt cây đàn 
Hai mươi năm lẻ chưa tan lời nào 
Tiếng thầm giục cánh chim cao 
Ngựa phai sắc gió, chiến bào nhạt mây 
Cây đàn - nàng mới hỏi đây 
Là di chúc, lẫn lời Thầy - còn vương 
° ° ° 
Mốt mai ta bỏ sa trường 
Sẽ đưa Kiều lại cố hương lần hồi (440) 
Bên dòng suối ngắm hoa trôi 
Cất gian lều nhỏ lưng đồi cỏ may 
Xuống đồng tát cá, bới khoai 
Vào non bẫy thú, nằm dài nghe chim 
Anh em nhớ đến nhau tìm 
Qua nương trẩy một giỏ sim làm quà 
Hứng nước suối thết bình trà 
Hái bầu nấu bát canh hoa cuời khàn 
Vuốt râu, viết sách, hưởng nhàn 
Then mây khoá một niết bàn bên khe (450) 
Mai sau viễn khách nào nghe 
Tìm thăm hang đá hỏi bè mây xanh 
Như Người phá giặc tan tành 
Vó mây Phù Đổng, công danh bọt bèo 
Vươn vai như biển dâng triều 
Đường về chỉ thấy sương chiều non giăng 
Kiều thưa: Rõ tấm can tràng 
Rồng thiêng ẩn cánh phượng hoàng bạt mây 
Phận hoa dám tưởng đâu ngày 
Song song đôi ngựa, cỏ cây tần ngần (460) 
Non cao mới biết trăng gần 
Đớn đau mới rõ dấu chân phi thường 
° ° ° 
Trò đời tranh bá đồ vương 
Ngàn năm phơi trắng bãi xương lập loè 
Lời than tiếng khóc còn nghe 
Gầm trời đâu chẳng khói che mịt mù 
Có chăng, goá phụ phòng thu 
Mạch sầu ngâm kỹ tiếng ru truyền đời 
° ° ° 
Từ nghe mắt thẳm trùng khơi 
Sương un chén ngọc, tay ngời ánh trăng (470) 
Nhìn cây đàn lạnh tơ băng 
Tóc bay mờ nhạt, sông Hằng sao thưa 
Cảm trong nữ tướng rừng xưa 
Tay Kiều hạ mấy dòng thơ lệ tràn 
Từ đem thích dưới thành đàn 
Bây giờ dấu cũ trơ làn sương phai 
° ° ° 
Đêm nay Kiều lại u hoài 
Lệ rơi đàn - bật dây ai não nùng 
Tiếng nào heo hút âm cung 
Ngoài song lãng đãng một vùng cỏ hoa (480) 
Hiển linh trong gợn âm ba 
Thành đàn cài nửa trăng tà nghiêng nghiêng 
Vai Kiều óng giải mây huyền 
Vuốt ve đâu gợn gió thiêng thoảng về 
Sao trời - ngỡ cánh hoa lê 
Dường như ánh mắt xưa kề mênh mông 
° ° ° 
Lại đêm trướng gấm trầm xông 
Từ nghe trinh bạch nỗi lòng nghĩa binh 
Hồ tổng đốc - Tướng triều đình 
Bỏ phường ô lại, chiêu nghinh hiền tài (490) 
Lại đem danh lợi chiêu bài 
Lại đem tông tích "rợ ngoài" truyền rao 
Còn đang vá giáp, mài đao 
Binh cơ trễ nải, anh hào phân vân 
Nửa vì đại nghĩa cố nhân 
Nửa e ngoại chủng, có phần hiềm nghi 
Thì thầm kẻ ở người đi 
Giáo gươm lơ đễnh, quân kỳ ngả nghiêng 
Lấy gì gióng trống thúc chiêng 
Gài ta vào thế tư riêng rõ ràng (500) 
Từ ngồi nung nấu tâm can 
Tuỳ cơ liều phải trá hàng một phen 
Chờ khi giáp mặt hai bên 
Rút đao bắt tướng, thế lên mấy hồi 
Chỉ còn ứng kế này thôi 
Con tin khi nắm chắc rồi - sẽ hay 
Bằng không - ngọt một đường bay 
Dù xa trăm thước đao này trệch đâu 
Rồi ta tuẫn tử qua cầu 
Cơ đồ trả lại cho mầu cỏ non (510) 
° ° ° 
Được thua một trận cười ròn 
Cái chi còn lại - hoạ còn văn chương 
Tội Kiều trải lắm đau thương 
Chẳng ơn xuân sắc lại chường gió Đông 
Cha già mẹ yếu ngùi trông 
Buồm đi cuối biển, bến mong sum vầy 
° ° ° 
Nghiêng nghiêng vò rượu nốc say 
Chống gươm sáu thước, dựng mày cọp thiêng 
° ° ° 
Kiều thưa: Chàng có chi phiền 
Phen này cho thiếp trận tiền được theo (520) 
° ° ° 
Mắt Từ như nửa trăng treo 
Rằng nơi bãi chiến lắm chiều gian nguy 
Việc quân - Kỳ, Chính còn tuỳ 
Thân ta muôn trận đã lỳ kiếm cung 
Ngại khi gươm giáo chập chùng 
Đất bằng kia lỡ bỗng vung sóng cồn 
Thôi! Nàng mắt khải hoàn môn 
Ngồi pha trà đợi, vân bôn ngựa về 
Qua sông chỉ ngọn kiếm thề 
Không yên thế giặc không về qua sông (530) 
Môi kia ai đậm cánh hồng 
Lầu xuân chờ nở một bông hướng vời 
Ta đi trong áng mây dời 
Tung cờ vĩnh cửu chơi vơi lá sầu 
Ngọn cờ ảo hoá thiên thâu 
Cuối đường vĩnh tuyệt rầu rầu cỏ xanh 
Lối ra - trống đổ tràng thành 
Hoa Thu trổ ngát, tinh anh dấu về 
Trái tim dũng sĩ không hề 
Cần chi một tấm mộ bia dựng buồn (540) 
Biết nhau - hạt lệ ngùi tuôn 
Cũng là rửa sạch đoạn trường gió bay 
Tử, Sinh - như áo đổi thay 
Lửa thiêng trao những bàn tay - chẳng tàn 
° ° ° 
Rồi Từ - như ánh sao tan 
Đêm nay loé giữa lòng đàn nao nao 
Trăng nghiêng nhớ mắt xưa nào 
Non xa còn khoác chiến bào nhạt sương 
Thanh trầm khơi nổi dòng thương 
Giàn Đông hoa đã ảnh hường sắc mây (550)


VII. Trăm năm sương nổi 

Bức thứ bảy: 
(Kim Trọng tới thăm Kiều, chàng kể lại ác mộng của mình. 
Kiều khuyên Kim dấn thân, làm việc nghĩa) 



Ngựa Kim dừng vó mái Tây 
Mũ xanh ngọc đính duới cây sương mờ 
Ung dung áo lụa hài tơ 
Tiểu đồng đôi trẻ hầu chờ ngoài hiên 
Trà dâng chén ngát thuỷ tiên 
Chàng ngồi tựa án ưu phiền mông lung 
Rằng: Điềm chưa rõ cát hung 
Mà nay dư cảm hãi hùng còn vương 
Đêm qua mơ vượt non sương 
Trên đầu lau lách bên sườn cỏ gai (560) 
Chân chồn, móc đẫm hai vai 
Càng lên đường lại càng dài - hướng lên 
Khi ta vừa tới đỉnh trên 
Khắp nhìn thiên hạ, bốn bên mấy người 
Thì đâu, ngun ngút mù hơi 
Núi kia hoá chiếc cầu ngời trăng thanh 
Chân non - hoá khoảnh trời xanh 
Đầu non - hoá vực đá, ghềnh hiểm nguy 
Hai tay đất đá ôm ghì 
Cầu treo lơ lửng - còn gì dưới sâu (570) 
Đỉnh non lại hoá đầu cầu 
Tưởng lên lại hoá lao đầu xuống khe 
Mịt mù sương toả mây che 
Rơi như ngọn cỏ, thét nghe hãi hùng 
Tỉnh ra cảm sợ vô cùng 
Chẳng hay mộng ứng cát hung lẽ nào 
° ° ° 
Vừa nghe Kim kể chiêm bao 
Lòng Kiều như suối nao nao dồn về 
Khác gì mộng thoảng đêm kia 
Cũng cây cầu lững bốn bề trơ vơ (580) 
Ta bay cùng tiếng trúc tơ 
Chàng lên đỉnh ngọn ai ngờ - xuống sâu 
Trăm năm là mấy nhịp cầu 
Bước chân kiếm hỏi bể dâu ngậm lời 
Tử sinh một cõi con người 
Thấp, Cao, Thành, Bại - khóc cười dở dang 
Buồn vui trong giấc mơ màng 
Mấy ai thoát khỏi con đàng khói mây 
Kiều thưa: Bèo dạt sóng vầy 
Khuôn thiêng như mảnh trăng dầy lung linh (590) 
Ý người dấy cuộc phù sinh 
Cát, Hung cũng tự lòng mình thế thôi 
° ° ° 
Hẳn chàng nghị án hôm rồi 
Đêm qua tấc dạ bồi hồi chưa an 
Khiến trong ảo giác đêm tàn 
Chiêm bao - thiếp sẽ nhờ bàn - dở hay 
Bây giờ hoa cỏ chờ tay 
Phúc nhân gieo một chút này làm duyên 
Bốn phương sóng gió đã yên 
Ban ân bố đức là quyền mẹ cha (600) 
Móc mưa thấm đượm muôn nhà 
Thánh hiền mở sách, quan nha dẹp hình 
Lợi dân là vững triều đình 
Từ bi trải rộng, yên bình mới xong 
° ° ° 
Kim rằng điều đó - hằng mong 
Cửa quan thành chốn cửa Không đại từ 
Nhưng đời - hai lẽ công tư 
Lòng người ẩn hiện thực hư khó lường 
Dưới trên đâu dễ một đường 
Phép công cũng trọng, lòng thương cũng nhiều (610) 
Khó sao tròn vẹn đôi điều 
Làm quan như thể chơi diều gió to 
Nào ai ai biết thương cho 
Qua sông ai đã nhớ đò đưa sông 
Cứ theo mực thước cửa công 
Oán ân cũng lắm, mà lòng nào yên 
° ° ° 
Nhiều khi nhớ thú điền viên 
Quân cờ giậu trúc, ưu phiền ngoài tai 
Muốn đem treo ấn cửa cài 
Căng buồm, biển rộng sông dài thênh thang (620) 
Học đòi theo gã Từ quan 
Bên chùa cởi áo chuộc nàng dưới hoa 
Mái chèo lãng đãng yên ba 
Thần Phù xoã tóc la đà rong chơi 
° ° ° 
Kiều thưa: Đạo khí tột vời 
Trăm năm sương nổi mây dời là bao 
Cho dù bổng trọng quyền cao 
Tấm thân đâu chỉ ra vào quyền vinh 
Có mình cũng thể quên mình 
Cự tà hiển chính yên bình thế gian (630) 
Giữ cho lòng được bình an 
Huyện đường nào khác non nam ngủ dài 
Xưa nay hào kiệt anh tài 
Không sương gió - đã biết ai đá vàng 
Cửa công dù được một chàng 
Còn hơn để rặt những hàng bất nhân 
Một lòng vì nước quên thân 
Là quan chẳng trọng, là dân chẳng phiền 
Kim rằng: tâm Phật lời Tiên 
Tài nàng cai trị hẳn yên nước nhà (640) 
° ° ° 
Đã nghe ngựa hí hiên hoa 
Vó rơi khiến hạt sương sa ửng hồng 
Tiễn chàng ra chốn cửa công 
Thềm lam tương kính đôi vòng tay cung


VIII. Tẩy nước cành dương 

Bức thứ tám: 
(Kiều đi thăm am xưa - nơi Giác Duyên đã dựng lên 
để nàng tu - am đã bị đốt, có người khắc trên tường 
bức tranh hạc, y như giấc mộng hiên thu của nàng) 



Kiều ngồi thêu đoá phù dung 
Gió lay những tưởng trùng trùng sóng xanh 
Con chim cẩm vũ trên cành 
Gọi chi thêm lạnh mấy nhành mưa bay 
Ngoài đồng hiu hắt bông may 
Tàng mây ẩm đục vào ngày trôi mau (650) 
Đường xa ngơ ngác cờ lau 
Am xưa liệu có phai màu khói sương 
Nhớ ngày tẩy nước cành dương 
Cửa Không yên gởi phận sương dần dà 
Sáng trông mái cỏ đầy hoa 
Như bông tuyết rụng cánh sa hàng hàng 
Ngừng tay nàng nhớ mang mang 
Cành Thu ngó lá Thu vàng vèo rơi 
Tàng lan như cất tay vời 
Thầy đi quẩy đẫy mây trời về chưa (660) 
Hay là tan tác gió mưa 
Nền rêu cây trút lệ thưa hoa tường 
Kiều truyền sửa kiệu lên đường 
Hầu theo đôi trẻ, quả hương tráp đào 
Sóng ùn khói trắng non cao 
Bãi xa cỏ úa dâng trào nước sông 
Tưởng chiều mắt lệ ngùi trông 
Tưởng người cứu độ cánh hồng là may 
Lênh đênh vẫn mặt sông này 
Bè giăng lưới đón, thuyền vầy hoa đưa (670) 
Thành đàn mười nhánh tay mưa 
Ngày nay hoa trổ, ngày xưa lệ ngần 
Núi rừng đâu rõ Thu Xuân 
Cánh chim nào nhớ dấu chân cát buồn 
Trách lòng tự đúc nên khuôn 
Trách người chia những vai tuồng thấp cao 
Vui buồn trong giấc chiêm bao 
Rồi đem vọng tưởng khép vào tâm can 
Nhớ Thầy Văn giảng Kim Cang 
"Khổ đau mới biết con đàng khói mây (680) 
Ngại gì người đó ta đây 
Mùa Xuân cây cỏ sum vầy trăm hoa 
Lênh đênh ngọn nước phù sa 
Vượt lên, thể nhập đại hoà biển dâu 
Lấy từ đâu, để về đâu 
Chợ mây tan hợp bên cầu mấy phiên 
Sao con lắm nỗi buồn phiền 
Chẳng như suơng sớm trên triền non bay 
Mặc ai tâm vọng nọ này 
Ván cờ cao thấp chua cay gượng cuời" (690) 
° ° ° 
Còn đang hướng mắt xa vời 
Núi xưa kiệu đã đến nơi hẹn lòng 
Tiếng chim thoảng lọt rèm hồng 
Sợi mưa bay ướp bềnh bồng hương lan 
Trông ra tủi hận vô vàn 
Am mây còn đống tro tàn nền trơ 
Rừng chiều lau lách bơ vơ 
Cây phơi cành lệ suơng mờ bao la 
Lòng Kiều lắm nỗi xót xa 
Trách mình quên mái hương xa bấy ngày (700) 
Thầy đi biền biệt ngàn mây 
Hỏi ai – hoa ngọn gió lay mấy nhành 
Mưa xoi rêu nhạt thềm xanh 
Cổng cao mối đắp, tường quanh chuột đùn 
Rì rào, dế gọi, trùng dun 
Vườn ngoài cỏ dại mấy lùm vươn cao 
Sân rêu vương dấu hài nào 
Không lâu hẳn có người vào đốt am 
Nàng truyền mấy đứa a hoàn 
Bệ xưa quét dọn, khói nhang lửa đèn (710) 
Kiều đang thơ thẩn quanh thềm 
Bỗng dưng thấy bức tường bên tạc hình 
Khắc con tiên hạc uốn mình 
Phiêu diêu hương nguyệt, lung linh vân đằng 
Rêu mờ, bụi phủ, nhện giăng 
Hạt mưa lấp lánh như hàng lệ rơi 
Chừng nghe tấc dạ bồi hồi 
Khác chi mộng thoảng đêm ngồi hiên Thu 
Cầu treo sương khói âm u 
Bước chân hạc nổi tít mù trăng sao (720) 
Bây giờ trước bức tường nao 
Vết hài nét hoạ thanh tao – cùng người 
Cứ xem nét ẩn nét tươi 
Chẳng từ đại chí, cũng nơi đạo trường 
Vết hài còn đậm dấu suơng 
Bức tranh rõ nét trên tường mới đây 
Hay là Tam Hợp sư Thầy 
Du phương để bức hoạ này nhủ ta 
Ý ngài thức tỉnh trần sa 
Quẩn quanh vọng tưởng vào ra ngại ngần (730) 
Sân ngoài mưa đọng dấu chân 
Tường trơ hạc cuốn phù vân rã rời 
Giác Duyên thầy khuất phương trời 
Mây ùn cửa núi, hoa rơi động ngoài 
Non xưa am vẳng u hoài 
Cây trơ sắc nhớ, cỏ dài ngọn trông 
Biết đâu đã xả bụi hồng 
Hoá thân triền núi bãi sông nào chừng 
Sợi mưa ngơ ngác rưng rưng 
Hoa nghiêng lắng gió cây rừng vọng chim (740) 
Trên sông đôi giải mây chìm 
Nắng hoe tà áo tóc in dòng huyền 
° ° ° 
Kiệu phu chờ thỉnh ý trên 
Thơ đề thoắt uốn tay tiên bốn dòng 
Vai nghiêng vắt cạn lệ lòng 
Tơ Thu cuộn thẫm một vòng tà dương 
Nẻo về lối tím khe sương 
Hoa chân núi, lệ ven đường cùng rơi 
Thì thào khói sóng ùn hơi 
Nhạn sa dấu cát, mây dời sắc non (750) 
Đường dài thêm nỗi héo hon 
Cội lan đỉnh biếc hương còn vuơng theo


IX. Năm cung trường lệ 

Bức thứ chín: 
(Đêm Kiều ngồi đọc thơ – cây đàn cũ "Gươm đàn nửa gánh" 
của Từ Hải - lại tự bật lên một tiếng não nùng) 



Giàn Đông chênh mảnh gương treo 
Ánh trăng pha hạt nến gieo lệ vàng 
Lung linh bóng nhạt thành đàn 
Kiều ngồi tựa án giở trang thơ sầu 
Tay tiên lả cánh nhiệm màu 
Mắt huyền thoáng hiện mấy câu suơng mờ 
Ngàn năm mực đọng dòng thơ 
Bút lan quyện gió trên tờ khói mây (760) 
Hạc nào qua, dấu còn đây 
Đường xưa chim để sầu này chan chan 
Thơ tình cuộn sóng chưa tan 
Hồn tình đáy chén bạch đàn đêm lên 
Lệ tình rơi vỡ bóng thuyền 
Chàng Trương – một khúc hát nguyền – tóc bay 
° ° ° 
Lửa tàn bóng lạnh lung lay 
Tường Đông lại chợt vẳng dây não lòng 
Cho sầu thêm võ hoa dong 
Tỳ bà đẫm một nét cong trăng vàng (770) 
Đêm qua tơ tóc bàng hoàng 
Bây giờ lại thoảng nốt đàn âm dương 
Hoa xưa tàn gió sa truờng 
Chút hương trinh bạch còn vương vấn hoài 
Bao năm theo ngựa lạc loài 
Năm cung trường lệ gởi ai anh hùng 
Rồng thiêng một thưở vẫy vùng 
Nghiệp riêng đã dứt, thù chung đã đền 
Vị gì nấc tiếng tơ lên 
Trong hơi gió vuốt rùng trên tỳ bà (780) 
Chén quỳnh trăng ẩn bóng hoa 
Bóng gieo xuống bức rèm là như mưa


X. Hộp gỗ trầm hương 

Bức thứ mười: 
(Kiều nằm võng, đọc Thơ Kinh, khi vừa nhập diệu, 
thì cây đàn "Trần Nguyện Mai" cũng tự vỡ tan – Kiều truyền chôn đàn 
theo bên mộ nghĩa sĩ – Trồng lên nóc mộ đàn cây đông mai) 



Trời cao xanh hạt suơng thưa 
Tổ rơm gió động chim đưa giọng tình 
Bãi thu nhuộm khói bình minh 
Cò bay trắng lẫn bồng bình mây xa 
Kiều nằm soãi dưới giàn hoa 
Đu đưa nhịp võng tóc sa dòng huyền 
Xanh từ thảm cỏ xanh lên 
Hương từ gió lại, hương trên lụa hồng (790) 
Áo nàng tuyết điểm nhành bông 
Giếng huyền nét mắt, sen hồng viền tai 
Thơ Kinh thầm đọc sớm mai 
Chữ trong giấy quý, chữ ngoài chân chim 
Ý từ mây thấm vào tim 
Lời ra sỏi đá cũng im lặng mừng 
Dường trong tâm não tưng bừng 
Ý thơ cất cánh chim rừng hồ giang 
Làm cầu đưa trái tim sang 
Bờ kia – một đoá sen vàng chơi vơi (800) 
Võng như đưa tới ngọn trời 
Mở tung giả ngã lắng lời thiên nhiên 
Tay mười ngón muốt tơ tiên 
Cầm cong nhật nguyệt – hai miền mông lung 
Thêm huyền hoặc vẻ thu dung 
Bông hoa trong cõi vô cùng lại tươi 
Bâng khuâng Kiều hé môi cười 
Chợt nghe vách nắng rụng rời tiếng ngân 
Nghiêng mình dáng liễu dời chân 
Mái Đông ghé lại, xem gần, mới hay (810) 
° ° ° 
Cây đàn Từ - đứt tơ dây 
Thành đàn rời rụng những này gió sương 
Thấy từ thớ gỗ ám hương 
Thoáng con nhện trắng tìm đường tơ leo 
Mơ hồ ngựa chảy quân reo 
Hoa man mác lệ, gió heo hút vàng 
Kiều ôm đàn cũ sầu tàng 
Gỗ cau mặt thấm đôi hàng lệ xanh 
Tay nào bật khúc vô thanh 
Cho hoa kia trắng một cành tin xuân (820) 
Còn gì trong cõi phù vân 
Đàn ơi! Chẳng để ai ngần lệ thêm 
Bây giờ đàn lại lên yên 
Liềm trăng thái cổ - đêm huyền ngựa mây 
° ° ° 
Tóc Kiều gió phất phơ lay 
Môi chau nụ Hạ, mắt ngây giếng trời 
Gỗ xưa một nắm rã rời 
Hai tay ôm trọn lệ ngời chứa chan 
Nàng quỳ nghiêng tượng hiên lam 
Đàn tiêu mặt nhớ, lòng tan sợi buồn (830) 
Khác gì mây trải mưa tuôn 
Theo mưa mây cũng tan luôn bóng hình 
Rồi Kiều gói nắm u tình 
Cây đàn Từ - Nguyện còn hình gỗ trơ 
Chôn ngày xưa với đàn xưa 
Đoạn trường rơi lệ xin giờ thôi vương 
Liệm vào hộp gỗ trầm hương 
Chung quanh lót những hoa hường hoa mai 
Lò hương – khói ngẩn ngơ dài 
Mái Đông gió thoảng gieo vài lễ hoa (840) 
° ° ° 
Kiều truyền mấy đứa sai nha 
Đem hòm đàn nọ, hỏi nhà quản lao 
Nơi chôn dũng sĩ hôm nào 
Bên mồ, kỷ vật đặt vào táng theo 
Sườn đồi nắm đất cheo leo 
Nhành bia tuế nguyệt sương neo mấy hàng 
Lại truyền đánh gốc mai vàng 
Trồng lên nóc mộ cây đàn Nguyện Mai 
° ° ° 
Tơ tình theo gió ngàn bay 
Chờ xuân vàng cội hoa gầy hắt hiu (850)


XI. Những đêm tàn rượu 

Bức thứ mười một: 
(Hồ Tôn Hiến thanh tra đất cũ, nhớ tiếng đàn Thuý Kiều. 
Trong tiệc thơ, có nhà văn kể lại đời nàng. 
Hồ ban tặng Kim Trọng cây đàn) 



Kim về tựa án đăm chiêu 
Chập chờn lửa múa, tiêu điều gió đưa 
Vào Đông tiết giá mưa thưa 
Cành trơ vàng rụng, đào vừa hồng khai 
° ° ° 
Huyện đường kể buổi sáng nay 
Có Hồ Tổng đốc nhân ngày thanh tra 
Đất bằng nhớ trận phong ba 
Thác là ngựa cuốn, gió là cờ reo 
Hồ cùng Từ Hải – một keo 
Nắng ngời kiếm kích, mây neo lọng tàn (860) 
Vài năm giặc giã tan hàng 
Mưu cơ đôi kế, ngọc vàng dăm rương 
Họ Từ - đối thủ phi thường 
Nam bang trí dũng chẳng nhường một ai 
Võ văn thao lược là tài 
Đức dung hào kiệt, trí ngoài thần cơ 
Nêu chính nghĩa, dựng màu cờ 
Danh vang trung thổ, khí mờ đẩu tinh 
Giá là rường cột triều đình 
Bốn phương mở cõi, thái bình cậy tay (870) 
Cứ xem người đó ta đây 
Trời cao hơn hẳn đất dầy - chẳng sai 
Xưa nay những bậc kỳ tài 
Tử sanh là chuyện bên ngoài, luận chi 
Tấn trò dâu biển qua đi 
Nghĩa nhân mới để chút gì làm duyên 
Mượn danh đãi sĩ chiêu hiền 
Che quân mai phục giáo khiên sáng loà 
Họ Từ thừa biết mưu ta 
Vẫn vào đất chết như là rong chơi (880) 
Vả chăng tuốt mũi gươm ngời 
Hai bên kéo một cuộc chơi đến cùng 
Dù cho trời đất chẳng dung 
Hùm thiêng trong rọ vẫy vùng chưa thôi 
Lại thêm thây chất nên đồi 
Nát nhầu cỏ nội, tả tơi lá ngàn 
Hẳn Từ chẳng vị giàu sang 
Lồng son sao đáng phượng hoàng khép thân 
Mà e gió dập mây vần 
Thêm hồn vô tội dưới chân ngựa giày (890) 
Một khi nát cỏ tàn cây 
Đời Kiều ắt hẳn thêm đày đoạ mưa 
Anh hùng nhi nữ nghìn xưa 
Vướng nhau vì một đường tơ diệu vời 
° ° ° 
Những đêm tàn rượu chơi vơi 
Trong ta chợt hiện bóng người hiên ngang 
Mắt Từ - kiếm ảnh chưa tan 
Khiến thân co lạnh trong làn khí thiêng 
Nghĩ mình muôn trận cung tên 
Việc quân trá thuật là quyền xưa nay (900) 
Ngại gì máu nhuộm hồng tay 
Thây oan chừng đã chất đầy đồng hoang 
Tử sanh - là luật sa tràng 
Giáo gươm là tín, trá gian là tài 
Chiến tranh – chẳng khác canh bài 
Mua vui trong cuộc trần ai nhọc nhằn 
Chỉ vì chút lợi chút danh 
Được thua đắp đỗi – tan tành tiếp nhau 
Đã thành cái lệ biển dâu 
Yếu thua, mạnh được – cao sâu đặt bày (910) 
Trừ khi Thánh Chúa vần xoay 
Yêu thương sự sống ngừng tay hận thù 
Lòng không biển thẳm non mù 
Hợp hoà cuộc thế thiên thu cậy nhờ 
Còn như trí thuật nghìn xưa 
Bày ra thêm những vực bờ tâm gian 
° ° ° 
Núi sông trải mãi xương tàn 
Đổi thành mấy đấu lương quan triều đình 
Cúi đầu lấy nhục làm vinh 
Mắt mờ tai điếc, dân tình mặc ai (920) 
Vật vờ áo mão cân đai 
Vào trong khúm núm, ra ngoài vây vo 
Tiếc cho thân cũng trong lò 
Tỉnh thôi tóc đã màu tro ngả chiều 
Hồn oan nào biết bao nhiêu 
Lẫn hơi gió lạnh ít nhiều oán pha 
Mắt Từ như lưỡi gươm loà 
Đêm đêm vào mộng nhìn ta lạnh lùng 
Trải qua muôn trận thư hùng 
Khơi sông máu hận đổi chung rượu đầy (930) 
Đã từng xé xác phanh thây 
Xem như phạt cỏ chém cây là thường 
Kể chi thiện ác thói thường 
Chiến tranh là đến yêu thương nhiệm mầu 
Mặc cho lũ quỷ không đầu 
Dắt nhau lủi thủi qua cầu tử sinh 
Từ hôm cái chết oanh linh 
Trong tâm ám ảnh, bên tình không yên 
Khiến ta u uất não phiền 
Đêm đêm thao thức ngó viền trăng phai (940) 
Bao giờ hoà hợp muôn loài 
Bên trong thịnh đức, bên ngoài điều phương 
Làm sao mở hết biên cương 
Trần gian dựng một thiên đường chung vui 
Cho hoa tươi góp ngàn tươi 
Cho ta dâng nốt cuộc đời góp công 
° ° ° 
Qua đây nhớ tiếng tơ đồng 
Ngày tàn binh lửa núi sông nhuộm cờ 
Tay Kiều lướt mấy dòng tơ 
Năm cung còn đến bây giờ vọng vang (950) 
Sông Thương nào sóng mang mang 
Tấm lòng nghĩa nước tình chàng chia đôi 
An Tiêm nào nỗi bồi hồi 
Hồn quê theo cánh diều trôi mây về 
Bốn dây như điếng như tê 
Nỉ non oán đọng, não nề sầu câm 
Bây giờ vẫn thoảng dư âm 
Tiếng đàn thanh lặng khóc thầm bấy nay 
Tơ xưa rụng ở đất này 
Ngọc xưa trầm dưới sông vầy lênh đênh (960) 
Đoạn trường sóng dọi trăng thanh 
Tưởng xiêm y đó còn xanh đến giờ 
Bãi chiều hoa trắng đong đưa 
Ngỡ tay người cũ phím tơ lạnh lùng 
Giờ nhìn kỹ nữ so cung 
Hồ ngồi tựa gối nhắp chung trà buồn 
Sân mưa sùi sụt dòng tuôn 
Dương như lệ tủi kiếp hường long đong 
Cùng tân khách ngỏ hận lòng 
Hồ tơ nay chạnh tiếng đồng tiệc quân (970) 
Ngày xưa, của một giai nhân 
Giết chồng, cứu nước muôn phần vẻ vang 
Rồi thân giao xuống Tiền Đàng 
Trăm năm vẹn nghĩa đá vàng sâu xa 
° ° ° 
Bấy giờ có một văn gia 
Thưa rằng chuyện ấy tôi đà rõ hay 
Giở trang tài mệnh xưa nay 
Cùng hoen nước mắt, càng dày túc duyên 
Dòng đời khi xuống khi lên 
Cũng là thử thách cánh thuyền thiên hương (980) 
Kể từ đất cũ họ Vương 
Kiều, Vân phận gái riêng vườn ẩn hoa 
Vương Quan, trai nối dòng nhà 
Soi trăng đọc sách đậm đà kinh luân 
Thuý Kiều vì hiếu quên thân 
Duyên trời vừa hé nụ xuân vội tàn 
Tưởng cùng Kim dệt phím loan 
Trăm năm hoà một bản đàn rồng mây 
Ai ngờ một sớm chia tay 
Mảnh trăng, đất nọ đất này nhớ nhau (990) 
° ° ° 
Kẻ đi buồn trắng ngàn lau 
Người về tay nhặt hoa cau lệ tràn 
Vận nhà gặp chuyện trái oan 
Vàng ba trăm lạng lễ quan mới thành 
Chuộc cha, nàng phải bán thân 
Dầu sôi lửa bỏng dám lần lữa đâu 
Cậy em trả mối tình đầu 
Hạt mưa liều phận, chôn câu nguyệt thề 
Rơi vào tay họ Mã kia 
Dầm sương dãi gió một xe bụi hồng (1000) 
Cánh bèo ngơ ngác trên sông 
Lầm nơi buôn hạnh, bán hồng mà trao 
Phận Kiều chưa ngọt tay dao 
Then sương đóng chặt hoa vào lầu xanh 
Lại lầm thêm mẹo Sở Khanh 
Miệng kêu chẳng thấu thôi đành phận câm 
Đứt lòng nức tiếng ca ngâm 
Rượu cười cợt khách lệ tầm tã riêng 
Nàng cùng chàng Thúc vầy duyên 
Tưởng qua dầu dãi lại thêm đoạ đày (1010) 
Chước ghen vợ Thúc mới hay 
Khiến mày mặt tủi – ngó mày mặt đau 
Trái oan đành phận tôi hầu 
Cá nằm đáy lưới lo rầu sớm hôm 
Vượt tường ẩn chốn Thiền môn 
Nhưng e thêm trận sóng cồn phong ba 
Lần thêm Bạc Hạnh, Bạc Bà 
Tưởng đâu mái ấm lại là lầu xanh 
Thôi thì sen lấm bùn tanh 
Gió mưa thêm nữa vầy cành thu mưa (1020) 
Não nùng nguyệt đón sương đưa 
Tình riêng còn ánh sao thưa cuối trời 
° ° ° 
Một hôm đất Việt có người 
Nghênh ngang đàn kiếm tìm nơi chuộc nàng 
Nửa năm duyên bén đá vàng 
Họ Từ nổi máu hồ giang quen ngày 
Đưa chồng ngựa nhạt yên mây 
Phòng thu khép kín đêm ngày mênh mông 
Người đi mù mịt non sông 
Cho hoa quỳ võ một bông hướng chờ (1030) 
Ngó sao, sao cũng hoen mờ 
Hỏi trăng, trăng cũng lặng lờ tuyết băng 
Nhện buồn thì giở tơ giăng 
Người buồn khâu áo, biết rằng gửi ai 
Gió phai màu lá hiên ngoài 
Lệ phai sắc gối đêm dài bóng câm 
° ° ° 
Một hôm binh giáp ầm ầm 
Từ về tráng khí hùng tâm chói loà 
Trai hào kiệt, gái anh hoa 
Một lời đã hẹn dẫu là trăm năm (1040) 
Bao phen ngậm lệ kêu thầm 
Nhục phơi mặt tái, sầu bầm dạ tuơng 
Kiều đem - ân oán tỏ tường 
Trả vay cho rõ lẽ thường quả nhân 
Những phường buôn liễu vùi xuân 
Đầu bêu cửa chợ xa gần hãi kinh 
° ° ° 
Thế rồi binh mã triều đình 
Cọp beo là dũng, ngạc kình là oai 
Tướng trời nổi trận gió bay 
Rạng ơn thánh thượng, một ngày giặc tan (1050) 
Thưởng công nàng với thổ quan 
Lênh đênh chèo quế, sóng lam dặt dìu 
Lòng ai tan tác muôn chiều 
Tiền Đường nước bạc gieo liều phù dung 
Chìm vào con nước - năm cung 
Cho đàn hoá sóng não nùng lòng ai 
Tiền căn chưa dứt thiên tài 
Cành vàng lại vướng mẻ chài thiện duyên 
Từ đây khoác áo hương thiền 
Nước dương tẩy oán tan phiền từ đây (1060) 
Mệnh đàn tưởng cuốn tơ dây 
Cửa Không chôn chặt những ngày xa xưa 
° ° ° 
Cuộc đời lắm nỗi tình cờ 
Khi trông không lại, chẳng chờ thì qua 
Từ Kim quẩy sách về nhà 
Chịu tang đất cũ, nhớ hoa đất người 
Nửa năm của lệch gió cười 
Hong đèn – sợ bóng, trông vời – tiếc trăng 
Đoạn tang vội vã vân đằng 
Lòng thu dặm bụi, ngựa băng nội dài (1070) 
Liễu xa những tưởng sầu ai 
Áo bay ráng đỏ, tóc gài mây xanh 
Đàn còn đợi ngẩn ngơ thanh 
Hiên văn sẽ lại nguyên vành trăng hương 
Một chiều giậu cũ dừng cương 
Bưởi phơi nụ lệ bên đường lất lây 
Hỏi nhà Vương - đã rời đây 
Hỏi nàng, đã đáp xe mây vân trình 
Hỏi tình, tình đã quên tình 
Vườn đào xanh cũ tưởng hình trâm rơi (1080) 
Tường xưa, mòn lệ trông vời 
Hoa xưa dột não lời thề hoa 
Buồng trầm xưa vẳng âm ba 
Còn rau sam, ấy nắng tà, vàng trơ 
Tỉ tê dế gọi trăng mờ 
Mấy tàu lá chuối xạc xờ gió lay 
Chàng Kim dõi đó tìm đây 
Sào phơi còn giải lụa dày dạn mưa 
Quẩn quanh nhặt chút hương thừa 
Chiếc hồn ma dại vật vờ thềm hoang (1090) 
Hỏi người tìm đến cuối làng 
Nhà Vương ẩn mái tranh tàn cột xiêu 
Hàn huyên nhắc lại chuyện Kiều 
Chứa chan khoé lệ, tiêu điều mày chau 
Tưởng nàng xa biệt ngàn dâu 
Bâng khuâng tóc biếc, giãi dầu mặt hương 
Tưởng hoa ngậm lệ canh trường 
Hồn theo cánh đóm tha phương lập loè 
Chừng đâu trong mảnh trăng kia 
Cùng soi hai mặt, cùng nghe lạnh lùng (1100) 
Trăng chung mà gối chẳng chung 
Lệ rơi lấp lánh một vùng ánh trăng 
Ước gì hoá được mây giăng 
Tìm nhau khắp chốn dẫu rằng tàn hơi 
Ước chi hoá hạt sương ngời 
Thiết tha đậu xuống tóc nguời miên man 
° ° ° 
Cứ theo ước nguyện của nàng 
Thuý Vân sẽ kết cùng chàng mối duyên 
Vương, Kim khuya sớm bút nghiên 
Bảng treo nhành quế tên điền rõ hai (1110) 
Bõ công kinh sách miệt mài 
Việc quan gánh vác, trong ngoài hiển vinh 
Lòng càng khơi ngọn lửa tình 
Trơ vơ trăng dõi, lung linh đèn sầu 
° ° ° 
Chàng Kim dong ngựa tìm châu 
Bâng khuâng nắng giãi, âu sầu suơng in 
Vẫn là mù mịt bóng chim 
Nhạn bay núi Bắc đi tìm biển Đông 
Kể gì đèn phố khói sông 
Mắt soi tám hướng, lòng mong mười chiều (1120) 
Cỏ hoa cũng tưởng Thuý Kiều 
Bâng khuâng suối bổng, đăm chiêu núi trầm 
Trời xanh thương kẻ có tâm 
Trong nơi tuyết giá hé mầm tin xuân 
Bao năm xuôi ngược đường trần 
Lang thang vó ngựa một thân võ vàng 
Được tin nàng – đã mất nàng 
Mạch sầu cắt nhỏ đôi hàng lệ xanh 
Kim nghe mới thấu ngọn ngành 
Kiếp hoa từ thuở lìa cành đớn đau (1130) 
Hết đày đoạ chốn thanh lâu 
Lại sa vào phận tôi hầu trớ trêu 
Kiếp người chừng được bấy nhiêu 
Mà bao hàng lệ tiêu điều thấm hoen 
Trách trời nỡ nặng lòng ghen 
Hết vùi tài trí, lại lèn giai nhân 
Cõi hồng đã rạc dấu chân 
Lòng mong dầu chỉ một lần thoáng qua 
Dẫu tình dang dở đôi ta 
Một lần thấy mặt âu là trăm năm (1140) 
Sông dài vừa gặp cá tăm 
Thì người xưa đã yên nằm đáy sông 
Ối thôi! Vỡ ngọc tàn hồng 
Thương nhau xin cảm nỗi lòng cho nhau 
Đàn tràng lập bến sông sâu 
Lệ tình rửa ngọc tươi màu băng nguyên 
Trả nhau vẹn nửa trăng nguyền 
Nước dương xin giải ưu phiền hờn oan 
Lênh đênh mặt sóng hoa tang 
Bó hoa nổi giữa mây vàng lô xô (1150) 
° ° ° 
Bỗng dưng hiện đến sư cô 
Nón gồi lá thẫm, dép bồ cỏ thơm 
Áo Đà vạt đậm hoàng hôn 
Quẩy kinh đầu gậy rẽ cồn lau vương 
Ảnh Kiều, vừa nhác bàn hương 
Mắt trầm tươi nét, dáng sương ngại ngần 
Nhà sư bỏ nón dừng chân 
Hai bên thi lễ thưa gần thưa xa 
Cửa Thiền còn ẩn tố nga 
Vừa nghe những tưởng đâu là chiêm bao (1160) 
Chàng Kim mắt lệ tuôn trào 
Kẻ sau người trước xôn xao lạy mừng 
Kéo nhau lên đỉnh cồn rừng 
Cây xao nhã điệu, chim bừng nhã thanh 
° ° ° 
Hương chiều ngan ngát am tranh 
Ngoài sân man mác mấy nhành lan rơi 
Dưới hoa thấp thoáng bóng người 
Quét hoa tay cũng lả ngời chùm hoa 
Nhìn nhau suối lệ tuôn oà 
Nỗi riêng tủi thẹn, nỗi nhà đoàn viên (1170) 
Phận bèo trôi dạt sông thiêng 
Ngờ đâu hai mảnh trăng nguyền chưa phai 
Một nhà sum họp trúc mai 
Thêm chim tấu nhạc, thêm đài bông dâng 
Bõ rài rạc ngựa bâng khuâng 
Bõ hiu hắt gió theo vầng mây xanh 
Cõi lòng cũng rộn yến oanh 
Viền trăng duới lại gặp vành trăng trên 
Dòng hương quyện sóng đàn lên 
Đổi tình cầm sắt thành duyên cầm kỳ (1180) 
Người kiệt nữ ấy là chi 
Đương Kim quan huyện, chính vì phu nhân 
° ° ° 
Hồ nghe vẻ mặt tần ngần 
Bờ sương ngạn liễu giang tân nhạt nhoà 
Tiểu đình trầm mặc hiên hoa 
Trà sen đọng nguyệt, tỳ bà dừng loan 
Sượng sùng khoé mắt thượng quan 
Nửa chi cay đắng, nửa san ngậm ngùi 
Sáng nay, Hồ mới sai người 
Đem cây đàn quý ban nơi huyện đường (1190) 
Thiên tình lại dệt đôi chương 
Thưởng công trị loạn, tuyên dương hiền tài 
Kim về tựa án thở dài 
Nến trong lệ đọng, mưa ngoài hiên thưa 
Tặng đàn hẳn nhắc tiếng xưa 
Trị dân – thầm nhủ như vừa so dây 
Ra vào, tư lự riêng tây 
Nghĩ mai thiết yến, đặt bày lo toan 
Ngoài hiên có tiếng a hoàn 
Dâng thơ đã nhác tên nàng đề phong (1200) 
Nến rơi lã chã giọt hồng 
Xem qua nhẹ nỗi bận lòng tối nay 
Chữ Kiều, lãng đãng hương bay 
Lủa pha sắc giấy ửng mây chiều mờ 
Đàn này, thiếp đã so tơ 
Quả là báu vật, bây giờ, tạ ơn 
Ấm thì mạch suối nào hơn 
Ngân thì tiếng hạc như vờn cồn trăng 
Trục đàn sáng ngọc tươi băng 
Xuân phơi khói núi, Thu giăng tơ trời (1210) 
Cảm riêng khó tả nên lời 
Xin cho tiện thiếp dự nơi tao đàn 
° ° ° 
Trước là đáp lễ thượng quan 
Sau cùng bằng hữu dâng làn cung tơ 
Tri âm tạ mối duyên thơ 
Chút lân tài đã đợi chờ mấy Đông 
Thiếp xin ghi tạc ơn lòng 
Đêm nay thảo vội đôi dòng bút trao 
° ° ° 
Đồi xa nai vọng tiếng gào 
Ngoài hiên nhoà nhạt cội đào đơm sương (1220) 
Bóng ai quạnh quẽ trên tường 
Gió Đông lùa mấy dòng hương nhạt màu


XII. Dậy sóng Tiền Đường 

Bức thứ mười hai: 
(Nhờ tiếng đàn của Thuý Kiều, Hồ Tôn Hiến giải thoát 
khỏi con mắt ám ảnh của Từ Hải khi chết) 



Ngàn mai lợp trắng hiên lầu 
Hồ sen in dáng nhịp cầu lung linh 
Chênh vênh đôi mái tiểu đình 
Lẫn trong đảo liễu vươn mình xanh cong 
Ngàn đào gió gợn bên song 
Cành phơi sóng lục mơ mòng thiên nga 
Huyện đường mở tiệc thưởng hoa 
Quanh bờ liễu rũ đèn sa lồng vàng (1230) 
Dưới hoa thấp thoáng khách quan 
Giai nhân tài tử luận bàn văn chương 
Gió trầm ngan ngát thiên hương 
Hoàng hôn theo cánh nhạn hường về quanh 
° ° ° 
Sau rèm, phơ phất tinh anh 
Kiều ôm đàn, vuốt tóc xanh cúi chào 
Môi tươi chúm chím nụ đào 
Trán cao vòm tuyết, mi rào khoé nhung 
Não nùng một đoá phù dung 
Đôi tay hồng thạch so cung ngại ngần (1240) 
Xa đưa ấm giọng chim thần 
Chào mừng quan khách, xa gần dự thơ 
Nàng ngồi bên tấm rèm tơ 
Lung linh lửa nến, nhạt mờ dấu hoa 
Tóc mây biếc ngọn la đà 
Nửa phơi vóc liễu, nửa sa ráng trời 
Hồ quan tựa án trông vời 
Não nùng nét mặt rõ người năm xưa 
Tay Kiều hồng ngọc đong đưa 
Trầm im lặng khói, nến mờ ảo lay (1250) 
° ° ° 
Dây nào lơ thơ mây bay 
Nhỏ to như nhắc chuyện ngày hồng hoang 
Lòng Hồ tan loãng mênh mang 
Nỗi buồn khơi lại âm vang ngày nào 
° ° ° 
Lòng đàn bước thấp bước cao 
Dường như ngọn sóng xuôi vào trùng dương 
Đỉnh trầm cũng ngát thêm hương 
Cây đàn dậy sóng Tiền Đường trôi mau 
Tưởng muôn ngọn đổ qua đầu 
Mồ hôi đẫm mái tóc sầu Hồ quan (1260) 
Mắt Từ ám ảnh chưa tan 
Bỗng như vụt loé một làn gươm bay 
Mồ hôi ngỡ máu tuôn đầy 
Tay Hồ sửa tóc, mặt mày tái xanh 
Năm cung vàng ngọc tan tành 
Liễu tơ ướt sũng trời xanh rũ hồ 
Dây đàn chợt nín hư vô 
Tao nhân mặc khách còn ngơ ngẩn hồn 
° ° ° 
Lại run quỷ oán ma hờn 
Hơi đâu lạnh khối băng sơn bềnh bồng (1270) 
Dáng Kiều lau lách thu đông 
Như trăng úa gọi nước sông đi về 
Gió vờn cỏ nội lê thê 
Vệt sao lặn giữa tiểu khê hẹn hò 
° ° ° 
Ngón đàn thiên cổ so đo 
Tơ đồng lãng đãng theo lò hương gây 
Hạt sầu nức nở cung dây 
Tóc sa nét mực nến gầy lửa hiu 
Trán Hồ gợn nét đăm chiêu 
Đã bời gió tấp lại nhiều mưa đong (1280) 
Mắt Từ thoáng hiện ngoài song 
Nhìn Hồ trầm mặc như vòng trăng Thu 
Cành duơng trĩu ngọn sương mù 
Lồng đèn gió bạt lửa lu ngọn tàn 
° ° ° 
Tay tiên chợt ấm hơi đàn 
Mạch tuôn tí tách, trong làn xuân hương 
Nội ngàn hoa hé nụ sương 
Lò trầm man mác khói vương sợi dài 
Tưởng chừng chim họp ban mai 
Đậu về reo hát hiên ngoài triền miên (1290) 
Hồ nghe nhẹ bẵng ưu phiền 
Dây đàn ấm mạch suối thiêng tỉnh ngời 
Mắt Từ như cánh hạc trời 
Bay lên mất hút giữa nơi vô cùng 
Bấy giờ im bặt năm cung 
Trầm thưa thớt toả nến lung linh mờ 
Mắt Hồ vuơng ngấn lệ chờ 
Môi khô cười nụ hững hờ sầu quên 
° ° ° 
Ôm đàn khép nép hài tiên 
Tạ từ quan khách dáng quyên ngại ngần (1300) 
Tiệc đào tài tử giai nhân 
Vòng tay đưa tiễn trăng dần dần xê 
Lơ thơ liễu tựa hoa kề 
Hoa rơi tiễn bước hoa về cầu hoa 
Thêm trầm, thơ phú ngâm nga 
Sang canh eo óc tiếng gà vọng sương


XIII. Ngỡ ngàng bọt nước 

Bức thứ mười ba: 
(Kim Trọng cứu giải oan nghi án của Ngô Khôi) 



Kim đang ngồi trước công đường 
Ngói cong mưa rụng, rêu tường lá bay 
Xạc xào gió cuộn hoa lay 
Cây nghiêng hàng gọi cuối ngày vàng trơ (1310) 
Núi xa thành dựng mây mờ 
Thôn xa khói tím vẩn vơ nhạt nhoà 
Ngoài sân lích chích bầy gà 
Gọi nhau đến dưới hiên nhà ủ con 
Chim nào buông điệu véo von 
Tưởng như đất cũ tiếng còn giục ta 
Bao năm chưa lại quê nhà 
Trải hồng một giải cỏ hoa dõi chờ 
Chênh vênh vách núi xanh mơ 
Thác cao ghềnh vắt dòng tơ ngang trời (1320) 
Trại hoa Đá Trắng thương ơi 
Mỗi tên đất – mỗi dấu đời vọng vang 
Thương từ nương sắn khóm lang 
Nhớ từ mùi đất bên đàng nhớ đi 
Lớn lên giữa núi xanh rì 
Cỏ cây như thể tứ chi thuộc mình 
Một thời chia nhục chia vinh 
Đã làm nên cõi tâm tình - là ta 
Bây giờ sợ khác trước xa 
Chắt chiu ảo ảnh như là thiên thu (1330) 
Kim còn tựa án ưu tư 
Tình neo cánh gió, ý từ hạt mưa 
° ° ° 
Dưới thềm đã vọng tiếng thưa 
Dẫn vào bà lão già nua tuổi trời 
Lưng còng, quần áo tả tơi 
Tay nương gậy trúc vẻ người chốn quê 
Kim truyền: lão ở đâu về 
Có chi oan ức đạt đề của công 
Bẩm quan già ở núi Đông 
Suốt đời cặm cụi vun trồng rau khoai (1340) 
Hiếm hoi được mụn con trai 
Ngô Khôi tên gọi, tuổi ngoài ba mươi 
Cảnh già mẹ goá, con côi 
Vào rừng hái nấm, lên đồi bẻ măng 
Nhà nghèo chưa đủ miếng ăn 
Kể chi đau ốm khó khăn khôn lường 
Năm xưa quan trấn địa phương 
Một hôm gặp ở giữa đường, bắt đi 
Giữ giam nào rõ tội chi 
Thân nghèo còn biết lấy gì đảm đang (1350) 
Hai năm còm cõi lang thang 
Dò la được biết đày sang huyện này 
Vội vàng chống gậy đi ngay 
Tấm thân muôn dặm đoạ đày nắng mưa 
Lần xin cơm cặn canh thừa 
Nhìn con lần cuối cho vừa nhớ mong 
Xác này bỏ chợ trôi sông 
Còn hơn tựa cửa ngùi trông lệ tràn 
Đánh liều, già đến cửa quan 
Cậy nhờ phụ mẫu xá oan cởi sầu (1360) 
Mẹ con cho đuợc nhìn nhau 
Làm thân trâu ngựa kiếp sau nguyện đền 
Vô cùng – cảm tạ ơn trên 
Thân này dầu nát không quên tấc thành 
° ° ° 
Mưa ngoài trĩu ngọn cỏ xanh 
Mây vương nắng quái bên thành mưa dây 
Rập đầu lạy trước án mây 
Trên khuôn mặt lão vương đầy lệ rơi 
Kim truyền tra sổ tìm người 
Rõ ràng án buộc những lời vu vơ (1370) 
Già nghe mừng tủi sững sờ 
Vẻ e quáng mắt, vẻ ngờ chiêm bao 
Lệnh truyền xuống bọn quản lao 
Giỏ khoai vội xách theo vào thăm con 
Trông già chàng những héo hon 
Bước chân từ mẫu trèo non đạp ngàn 
Đời còn lắm chuyện trái oan 
Bất công nhan nhản, lầm than dẫy đầy 
No nê chi bọn tớ, thầy 
Họp bè kết nhóm đạp giày dân đen (1380) 
Trời cao chẳng thể với lên 
Tiền tài thế lực bốn bên dập vùi 
Hùa nhau một lũ ăn người 
Tiếng kêu tắc nghẹn, tiếng cười hả hê 
Giận mình một thuở đam mê 
Trị dân thẳng mực ra bề tôi trung 
Nặng nề quỳ gối khom lưng 
Cũng phường bịt mắt tai bưng bấy ngày 
Vá trời khôn một bàn tay 
Đành đem chí gửi chén say giày vò (1390) 
Thôi thì đủ mặt đủ trò 
Thân tâm nô lệ vào cho đồng tiền 
Tưởng khi theo đuổi bút nghiên 
Mộng làm sáng đức thánh hiền cửa công 
Ngỡ ngàng bọt nước ra sông 
Chốn quê thèm đuợc làm ông đồ già 
Chính chân giữ lấy nếp nhà 
Đã làm không Hoá thì Hoà thái hư 
Khi ngày cao giọng thi thư 
Khi đêm thưởng nguyệt cùng sư đạo đàm (1400) 
Khi qua làng nước luận bàn 
Bảo răn như đạo, khuyên can thực lòng 
Còn hơn hoạn lộ long đong 
Giúp dân chẳng được như lòng ước ao 
Ta còn nhớ giấc chiêm bao 
Cầu treo dốc ngược rơi vào phù vân 
Theo Kiều lấy phúc làm nhân 
Cuối năm xin được thi ân giảm tù 
Những ai án tích lờ mờ 
Xin cho phóng thích, lượng nhờ quan trên (1410) 
Bút rồng đạo đạt đôi tên 
Ý tình tha thiết trình lên tỉnh đường 
° ° ° 
Bọt mưa nhuộm nắng mây huờng 
Cơn mây trên đỉnh phố phường về đâu 
Thì thùng nhịp trống tan hầu 
Ngoài sân ngựa cũng gục đầu hí vang


XIV. Hoà tan dặm trường 

Bức thứ mười bốn: 
(Ngô Khôi tới dâng Kim Trọng đôi chim Đại Hồi, 
nhờ vậy Vương Quan đã tìm đuợc tung tích Hồ Ông 
(Thầy học của Kim, Quan, Kiều) - Dòng dõi Hồ Quý Ly (Việt Nam) – lưu lạc bên Tàu, là một học giả chủ truơng "Tri Hoà Hành Hoá") 



Guồng tơ nhật nguyệt mênh mang 
Cuốn hồng sương núi, phơi vàng xuân hoa 
Lưng trời lác đác chim qua 
Cánh theo gió ấm thiết tha tìm về (1420) 
Mây bay lả nét thơ đề 
Núi xanh thiên bút ngọn kề nghiên suơng 
Lầu cong mái đậm nắng vương 
Tiếng chim trong cụm hải đường xôn xao 
Huyện đường khuất giữa ngàn đào 
Đì đùng pháo nổ, ngạt ngào trầm xông 
Cúc vàng nở ngát hiên đông 
Mây trời cỏ đất mênh mông một màu 
Họ hàng đoàn tụ bên nhau 
Nhìn đàn trẻ nhỏ trước sau một bầy (1430) 
Ngày xuân mới gặp nhau đây 
Vương, Kim ngồi dưới tàng cây thưởng trà 
Chuyện gần rồi đến chuyện xa 
Tấm lòng hồi tưởng quê nhà đinh ninh 
Hai ta như bóng theo hình 
Leo lên cành bưởi luận bình văn thơ 
Nhân khi Thầy mải cuộc cờ 
Trốn trường ra tắm bên bờ Bảo Giang 
Qua nương bẻ trộm mía vàng 
Ăn xong nhặt sỏi bên đàng ném nhau (1440) 
Trở về nhận bốn roi đau 
Thế rồi lại trốn đi câu như thường 
Trong mình, giấu mấy nén hương 
Ghé vào bãi mộ bên đường phụ ma 
Sườn đồi đuổi bắt reo ca 
Buông diều cánh cốc la đà bay lên 
Trèo cây đa, bắt sáo đen 
Móc nhằm hang rắn một phen hoảng hồn 
Mùa đông rủ chó săn chồn 
Xuống khe đơm cá, lên cồn bẫy chim (1450) 
Bạn xưa còn nhớ như in 
Bây giờ ai biết bóng chim cuối trời 
Mùa nào chẳng có thú chơi 
Ngày nào chẳng đứng nghe lời rầy la 
° ° ° 
Sau lưng có tiếng hầu nha 
Xin đưa một kẻ vào là Ngô Khôi 
Dâng lên cặp chim Đại Hồi 
Lông tơ như thể phấn nhồi tuyết vương 
Quả là báu vật lạ thường 
Tên Khôi khép nép bên tường trình thưa (1460) 
Rằng con từ độ ơn nhờ 
Thượng quan minh xét, bao giờ dám quên 
Đoái thương đến phận dân hèn 
Tha về phụng dưỡng mẹ hiền sắt son 
Đức tày vạn biển nghìn non 
Dù cho sông cạn đá mòn không phai 
Quê nhà có ngọn Thiên Thai 
Đỉnh cao chót vót là đài Thông Linh 
Có hang Thánh Hoá, Tâm Bình 
Bên chùa Non Nước cảnh tình thanh u (1470) 
Có Thầy ở nước Đại Ngu 
Là Hồ ẩn sĩ dật cư chốn này 
Tổ tiên lưu lạc qua đây 
Cố hương cách mấy trùng mây quan hà 
Sống cùng ái nữ hiền hoà 
Sắc tài đôi vẻ tên là Ẩn Lan 
Sớm trưa cung cửi tầm tang 
Xuống khe giặt lụa, lên ngàn dạo chơi 
° ° ° 
Vương, Kim vừa thoáng nghe lời 
Nhìn nhau xúc động bồi hồi - Thầy xưa! (1480) 
Bao năm đằng đẵng ai ngờ 
Mây còn quyện núi, nước chưa qua cầu 
Vương truyền: Người hãy trình mau 
Tiểu thư còn biết hiệu "Sầu Hoa Dung"? 
° ° ° 
Họ Ngô xiết đỗi lạ lùng 
Quan đây, Thầy đó hẳn chung họ hàng 
Bẩm quan quả đúng hiệu nàng 
Người còn tôn bậc chúa lan tuyệt trần 
° ° ° 
Hai chàng nghe nói tần ngần 
Mỗi lời như dẫn xa dần vào mơ (1490) 
Mái trường cỏ lợp đơn sơ 
Xanh xanh ngõ trúc, ơ hờ then hoa 
"Làm Nên Hoá, Biết Nên Hoà" 
Chủ trương, riêng phải học gia kinh quyền 
Điều Thân, Tịnh Ý, Hoàn Nguyên 
Hoà vào xã hội, thiên nhiên đổi dời 
Tình thương, lẽ sáng thông ngời 
Giúp người Tự Chỉnh giữa đời ngăn che 
Lời Thầy khuyên nhủ răn đe 
Khi ngồi luyện tập, khi nghe văn bình (1500) 
Đạo trương thắm thiết ân tình 
Bao năm tấc dạ in hình chưa phai 
° ° ° 
Khôi rằng: Như loại chim này 
Tuy là dã điểu – lại hay nghĩa nghì 
Theo nàng – đuổi cũng không đi 
"Lý – Trần – Lê" hót vân vi núi ngàn 
° ° ° 
Lâng lâng như suối reo đàn 
Tưởng lời non nước hoà tan dặm trường 
Từ nghe Lan hát trên nương 
Đôi chim từ bỏ non sương theo cùng (1510) 
Suốt ngày như bạn vui chung 
Tiếng chim hoà vọng một vùng non xanh 
Thế rồi kết tổ trên cành 
Thời gian thoắt đã nở thành một đôi 
Nàng đặt tên chim Đại Hồi 
Ngày ngày tung cánh trong nôi mây hồng 
Con thường hầu hạ Hồ Ông 
Lên non hái thuốc, câu sông buông thuyền 
Tập tành chút ít bút nghiên 
Thảnh thơi riêng cõi uyên tuyền qua mau (1520) 
Đói no bữa cháo bữa rau 
Nửa nuôi thân mẫu, nửa hầu Tôn sư 
Từ ngày hoạ đến chẳng ngờ 
Duyên may gặp cửa quan, nhờ lượng trên 
Cho về phụng duỡng mẹ hiền 
Ơn cao lòng những mong đền một mai 
Nhân khi kể đến danh ngài 
Ẩn Lan gửi tặng chim này lễ xuân 
Gọi là báo đáp đôi phần 
Rạng soi thánh đạo trị dân an hoà (1530) 
° ° ° 
Kim truyền: Heo hút non xa 
Dùi mài kinh sử được là quý hơn 
Vị gì lặn lội xuyên sơn 
Qua đây đền đáp chút ơn bình thường 
Mẹ già sớm móc chiều sương 
Lỡ khi nắng gió bất thường, chớ khinh 
Sinh thành ân nghĩa cho mình 
Còn ta chút lượng hiếu sinh đáng gì 
Nghỉ chân dăm bữa – rồi đi 
Cho ta gửi chút quà về núi Đông (1540)


XV. Ào ào ngọn gió 

Bức thứ mười lăm: 
(Kim, Quan du xuân - ra tay trừng trị 
bọn cường hào, vừa gây nên hai án mạng) 



Bâng khuâng huơng nội hoa đồng 
Làng xa bát ngát mấy vồng tre xanh 
Cỏ dài lả gió qua nhanh 
Chiều Xuân chim tụ trên cành mừng nhau 
Nắng chia vàng ửng hàng cau 
Thì thùng trống điểm nhịp chầu đình xa 
Đầu năm mở hội thưởng hoa 
Nào là Quan họ, nào là Trống quân 
Hai bên tuấn tử giai nhân 
Hoà nhau điệu hát trong ngần đầu thôn (1550) 
Sông dài chín ủng hoàng hôn 
Khói dâng lãng đãng bên cồn chim kêu 
Nhịp hò bơi chải giục đều 
Thuyền đua theo ngọn thuỷ triều như bay 
Tiếng nào la hét vỗ tay 
Ven đê thấp thoáng lửa bay đuốc hồng 
Mây phơi giăng đỏ đồi thông 
Chùa rêu núi vọng hồi chuông vân tường 
Vương, Kim cải dạng dân thường 
Thong dong thầy tớ lên đường dạo Xuân (1560) 
Dấu hài lân mẫn chúng nhân 
Bước đi cây cỏ xanh ngần vàng pha 
Nơi thì vào hội Đình Hoa 
Cây đu đầu ngõ la đà cành lên 
Gái quê má lúm đồng tiền 
Khăn vuông mỏ quạ, yếm viền gò xanh 
Mắt huyền tươi nét long lanh 
Thắt lưng hoa lý trên nhành vờn bay 
Người chờ đánh một vòng vây 
Bên kia trì xuống, bên này nhún thêm (1570) 
Cần tre lại vắt tung lên 
Nàng càng xanh mặt, chàng thêm hứng nồng 
Chung quanh tròn mắt cười trông 
Lắc lư đầu hướng theo vòng đu cao 
Nơi thì mở hội thôn đào 
Ngoài sân đô vật lăn vào quần nhau 
Trống cầm vừa đổ nhịp mau 
Hai thân hùng hục – một màu đồng hun 
Nơi thì chèo hát i uông 
Tiếng kèn eo ét, tấn tuồng múa may (1580) 
Diễn viên chỉ đó chỉ đây 
Sau cành đuốc lớn mặt mày đỏ ran 
Người xem dưới bục lấn tràn 
Áo hoen khăn bạc những làn mồ hôi 
Tập trung trống trút từng hồi 
Hoàng hôn lặng tắt sau đồi tùng xanh 
Cội mai phơ phất đôi cành 
Con ong kiếm mật bay nhanh bãi chiều 
Gió lùa ngọn cỏ đìu hiu 
Nam thanh nữ tú dập dìu lại qua (1590) 
° ° ° 
Bỗng nghe tiếng chạy tiếng la 
Rượt theo thằng bé quanh nhà lao xao 
Người xem không lối ra vào 
Trẻ kia còn biết ngả nào chuồn mau 
Hầm hầm mặt ngựa đầu trâu 
Quật theo đôi gậy, nắm đầu nhắc lên 
Lết đi như kéo tấm mền 
Buông tay, xác nọ rũ mềm lăn quay 
Một người xanh xám mặt mày 
Xông vào xác trẻ vừa lay vừa gào (1600) 
Con ơi! Con có làm sao 
Mẹ đây còn sống thế nào hở con! 
Trẻ kia hé mắt héo hon 
Nấc lên nhìn mẹ như còn thiết tha 
Buông thây con - mụ khóc oà 
Rú lên chồm đến người nhà vương tôn 
Gã tung đạp, hộc máu mồm 
Bước chân lảo đảo, mụ ôm bụng nằm 
Quân đâu kéo đến rầm rầm 
Nửa mau cấp cứu, nửa ngầm bủa vây (1610) 
Kim truyền: Trói hết bọn này 
Người quanh đổ lại tiếp tay tức thì 
Lôi thôi khăn áo tu mi 
Giáo gươm tuốt sáng dẫn đi một đoàn 
Mụ run tay chỉ bên đàng 
Thều thào, mấp máy hai làn môi khô 
Rằng con thân cô thế cô 
Chỉ còn đứa bé cậy nhờ thượng quan 
Dường như dồn hết hơi tàn 
Lời chi tắt nghẹn, xuôi bàn tay yên (1620) 
Bên trong trẻ khóc ré lên 
Vương truyền khiêng vực xác trên vào nhà 
Đầu giường còn bát cháo hoa 
Góc tường siêu thuốc hơi phà lửa sôi 
Nhìn hai thây chết bồi hồi 
Gặng tra mới có một người chịu thưa 
° ° ° 
Rằng chồng mụ nọ năm xưa 
Đày làm lính thú nắng mưa cuối trời 
Một hôm quần áo tả tơi 
Trốn về nhà giữa những lời hăm he (1630) 
Cái thân trên búa dưới đe 
Hết hào thuốc vặt, lại be rượu đầy 
Hết chiều tớ, lại hầu thầy 
Nai lưng làm mướn nuôi bầy nhặng xanh 
Ít tiền buôn bán để dành 
Cởi ra đút lót mấy anh sống nhờ 
Có thì giả bộ làm ngơ 
Bằng không xách cổ lên chờ cửa quan 
Thương con xót vợ cơ hàn 
Cắn răng ngậm miệng phàn nàn cùng ai (1640) 
Kéo cầy nuôi nợ - lệch vai 
Bao nhiêu đày đoạ rạc rài lắm phen 
Năm rồi có kẻ ghét ghen 
Thế là đóng cũi cài then nhốt vào 
Cái thân nhục nhã lính đào 
Tù cho đáng kiếp ai vào viếng thăm 
Mẹ con làm mướn quanh năm 
Thắt lưng buộc bụng khó khăn kể gì 
Tháng rồi sinh một hài nhi 
Có ai dám mướn thuê gì nữa đâu (1650) 
Cảnh nhà trăm mối lo sầu 
Thế rồi ngả bệnh nhấc đầu không lên 
Thằng cu lớn phải kiếm tiền 
Thuốc thang nuôi mẹ quanh miền xin ăn 
Kể chi hắt hủi nhục nhằn 
Cúi đầu lạy hết khó khăn phiền hà 
Xóm trong có một Hoạn gia 
Tiền kho bạc đụn đầy nhà quyền danh. 
Mấy đời dòng dõi công khanh 
Đè đầu bóp cổ dân lành nhiều phen (1660) 
Đã đành yên phận bùn đen 
Đạp quen người lại cố lèn thật đau 
Nuôi thêm một lũ đầu trâu 
Làng trên xóm dưới âu sầu bấy nay 
Đảo điên như trở bàn tay 
Quẹt công lừa của một bầy gian ngoan 
Bao người tù rục chết oan 
Bắt con, cuớp vợ tiêu tan dần dà 
Có ai tính chuyện kêu ca 
Nửa đêm ném lửa đốt nhà như chơi (1670) 
Đợi trời thì đã tàn hơi 
Căm bầm tím ruột, ngậm lời dạ thưa 
Tha hồ làm gió làm mưa 
Quan trên sợ thế còn chừa mặt ai 
Hoạn gia nổi tiếng một "ngài" 
Tham lam chật dạ, gái trai tính lừng 
Cầm đầu thêm bọn khuyển ưng 
Chuyên bề cướp giật, chuyên lùng gái tơ 
Chôn vùi bao kiếp đào thơ 
Ối thôi! Tội kể đã mờ trời cao (1980) 
Chiều nay thầy tớ tiêu dao 
Thằng cu vô phúc ném vào - lỡ tay 
Trông lên phách lạc hồn bay 
Co chân lủi đến chỗ này – rồi yên 
Nhờ ơn nhị vị quan trên 
Rộng soi mới dám trình lên đôi phần 
Nói cho cạn nỗi khổ dân 
Rồi ra nát thịt tan thân cũng đành 
Dù là voi đạp ngựa phanh 
Quyết đem đổi mạng cho thành tiếng kêu (1690) 
Khổ đau chất ngất bao điều 
Đèn trời soi rõ nay liều mạng thưa 
° ° ° 
Bỗng đâu lốc cuốn bụi mờ 
Ào ào ngọn gió vật vờ tàng me 
Ai ngờ sau chốn luỹ tre 
Lắm phường cẩu tặc kết bè hại nhân 
Chẳng kiêng phép nước xa gần 
Cậy thần cậy thế - gớm quân lột người 
Đường về Xuân cũng kém tươi 
Kim truyền đem trẻ về nơi công đàng (1700) 
Ra tay phá xích xiềng oan 
Bằng không ta sẽ cáo quan trở về


XVI. Ai để hoa dung 

Bức thứ mười sáu: 
(Vương Quan hồi tưởng người yêu cũ – nàng Ẩn Lan (con gái Hồ ông) 
và dự định đi theo Ngô Khôi thăm Thầy học) 



Vương Quan thơ thẩn ngoài đê 
Ven sông in bóng hoa lê nở bừng 
Tiếng ai hú vọng trong rừng 
Mây phơi lụa tím trên sừng trâu tơ 
Nền trời nhàn nhạt màu mơ 
Sông đem ráng đỏ sóng hờ hững đi 
Sáo diều vọng tiếng vu vi 
Như chim nghiêng cánh tìm gì lưng mây (1710) 
Thôn xa nghển bóng cau gầy 
Vẻ như tư lự dõi bầy sẻ thưa 
Gió chiều giục nhớ thôn xưa 
Vườn mai hoa trắng bây giờ còn tươi 
Niềm quê vời vợi phương trời 
Lửa chiều thấp thoáng tưởng lời cố thôn 
° ° ° 
Ngày xưa áo nhuộm hoàng hôn 
Dáng ai cắp rổ lên cồn hái dâu 
Tiếng nàng hát vọng đôi câu 
Dừng tay viết mướn lòng sầu vẩn vơ (1720) 
Lều tranh còn ủ chăn mơ 
Mối tình là một bài thơ vô đề 
Ẩn Lan ơi! Mái tóc thề 
Gió Xuân nay có vỗ về suối hương 
Đêm nao ngồi học bên tường 
Nến leo lét lụi, chữ vương vắt chìm 
Ngoài song thoảng tiếng hài im 
Như trăng buông hạt tơ chìm kiêu sa 
Lan cười đưa đến cho ta 
Sợi dài tóc buộc chùm hoa ngâu vàng (1730) 
Sách thơm áp má mơ màng 
Tỉnh ra hương thoảng bóng lan chập chờn 
Nhớ khi em dỗi em hờn 
Hai ta chia sẻ nắm cơm cháy vừng 
Nhớ đêm nằm võng ngó trăng 
Đếm ngôi "sao sáng" lại rằng "sáng sao" 
Giọng em lanh lảnh tiếng cao 
Răng em tươi hạt ngọc nào long lanh 
Nền trời mây lại qua nhanh 
Viền trăng vương phải đầu cành vỡ tan (1740) 
Những đêm trời tối như than 
Bắt con đom đóm trên giàn mồng tơi 
Cho em, em cất tiếng cười 
Hất tay em thả đóm trời tung bay 
Vòi ta đuổi bắt lại ngay 
Thả đi, đòi lại mãi đày đoạ nhau 
Gọi em là vẻ hoa sầu 
Lan đòi nụ bưởi cài đầu làm duyên 
Nhặt son trên núi mài nghiên 
Thơ anh em điểm dấu yên màu hồng (1750) 
Tưởng khi đỗ đạt thành công 
Tay đan suối tóc, hoa lồng trăng non 
Chưa thề sông cạn đá mòn 
Trang tình đã điểm dấu son đầu đời 
Dường trong ánh mắt tiếng cười 
Vẻ như ngượng ngập mở lời con tim 
Thế rồi – tăm cá bóng chim 
Theo Thầy ẩn dật dời miền đi xa 
Anh về lý vẫn đơm hoa 
Cuối thôn còn lại mái nhà xác xơ (1760) 
Hiên trăng soi quạnh bàn cờ 
Tìm chi con đóm cũng vờ vẩn bay 
Buồng đây, Lan vẫn ngồi may 
Bây giờ tơ nhện gió lay lạnh lùng 
Âu sầu ai để hoa dung 
Nền xưa giảng sách tiếng trùng ngân vang 
Tìm em đò dọc thuyền ngang 
Thấy đâu dấu vết chim sang đất nào 
Năm xưa em tựa cội đào 
Tên ai còn dấu khắc vào da cây (1770) 
Mấy lần anh lại chốn đây 
Hiên tranh đôi bướm vờn mây lững lờ 
Lòng buồn trăm mối vò tơ 
Sợ trông hoa nở, ngại chờ hứng thi 
Những đêm trăng sáng buồn chi 
Mà lòng sách vẳng tiếng gì chan chan 
Ngỡ chim gọi bạn trên giàn 
Ngỡ em phơi cái thời gian giậu ngoài 
Cánh lòng lại vượt ngàn mây 
Tìm đâu suối tóc tay cài hoa xưa (1780) 
Có đêm thao thức nghe mưa 
Tưởng em về tiếng guốc đưa ngại ngần 
Đông tàn còn thể chờ Xuân 
Đôi ta biền biệt sông Ngân nhạt nhoà 
Biết đâu em ở miền xa 
Nghe mưa mà chẳng như ta khóc mình 
Có đêm soi bóng lung linh 
Bâng khuâng một ngọn đèn tình trong sương 
Em thì biền biệt dáng hương 
Riêng hoa in bóng trên giường lơ thơ (1790) 
Tóc đan hoa ảnh lờ mờ 
Mộng xưa hoen ướt đôi tờ lệ thi 
Nước non cũng nhuốm sầu bi 
Người đi – úa cái Xuân thì – ai đây 
Dặm hồng biền biệt cồn mây 
Cỏ hoa chung giấc sum vầy bấy xuân 
° ° ° 
Thế rồi vâng lệnh song thân 
Xe duyên cùng với giai nhân xóm ngoài 
Có khi thức ngủ canh dài 
Mơ hồ còn tưởng dáng ai ngồi kề (1800) 
Tỉnh ra mới biết cơn mê 
Mảnh trăng cùng bóng hoa lê nhạt dần 
Tình đời rồi cũng phù vân 
Biết bao sóng gió xoá dần dư âm 
Dẫu lòng ôm mối tình câm 
Vùi sâu một nấm mù tâm lệ nhoà 
Bây giờ bắt được tin hoa 
Tấm lòng lại quặn xót xa lạ thường 
Sáng mai hành lý lên đường 
Thăm Lan biết mấy dặm trường ngựa bon (1810) 
° ° ° 
Sông dài cởi yếm hoàng hôn 
Bầy chim ngủ đậu bên cồn lại bay 
Gió về đưa ngọn sóng say 
Tiếng ca mục tử cuối ngày gọi trâu 
Bãi xa cỏ tím rầu rầu 
Mái đình rêu vọng trống chầu nhịp mưa


XVII. Lòng như khối ngọc 

Bức thứ mười bảy: 
(Kiều, Vân hành huơng chùa Văn Chương, thăm Thầy Văn – nhà sư 
đã dạy Kiều kinh Kim Cương) 



Trời Xuân trong vắt mây thưa 
Nắng hồng như xoã guồng tơ buông dần 
Núi xa bút dựng xanh ngần 
Cõi thiêng lảnh giọng chim thần chợt ca (1820) 
Tiếng chuông lay nhẹ ngàn hoa 
Bóng mây dường cũng giao hoà lang thang 
Ngày rằm sắm sửa đèn nhang 
Kiều, Vân ngồi võng trên đàng hành huơng 
° ° ° 
Sáng nay vãn cảnh Văn Chương 
Lưng non đôi mái khói hương phụng thờ 
Của nhà sư kiêm nhà thơ 
Thường cùng mặc khách cuộc cờ tiêu dao 
Nghe xưa, cũng bực anh hào 
Chí cao chẳng thoả, ẩn vào cửa Không (1830) 
Riêng lòng ôm ấp non sông 
Kết liên hào kiệt tang bồng chờ khi 
Dần dà thấm nhập từ bi 
Lòng yêu muôn loại sá gì – một, hai 
Diệu hành chuyển đạo Như Lai 
Vẫn trong vạn pháp, vẫn ngoài sắc danh 
Y phương cứu giúp dân lành 
Đôi tay đinh lực như thành phục ma 
Chẳng nề trà rượu đàn ca 
Chốn nào chốn chẳng hiền hoà đạo duyên (1840) 
Thong dong nửa Phật nửa Tiên 
Thiền tâm hoá độ một miền sao trăng 
Chí người như cánh chim bằng 
Hát ca vi vút bên Hằng cát vương 
Về đây lập cảnh Văn Chương 
Am che mái cỏ bên sườn non cao 
Đường lên trải trắng bông đào 
Gió sa hương nhuỵ, trời vào lá cây 
Tao nhân thường gặp nhau đây 
Thưởng trà thiền vị nghe Thầy luận kinh (1850) 
Đậm đà giáo lý nhân tình 
Niết Bàn thành cõi phù sinh đổi dời 
Đã quen biết mấy năm trời 
Với Kim, thầy cũng là người cố tri 
° ° ° 
Ngày rằm chị rủ em đi 
Thong dong võng lụa hai vì phu nhân 
Bên đường cỏ nhuộm mầu Xuân 
Đôi con châu chấu xanh ngần vụt bay 
° ° ° 
Nhạn sa soi mặt sông đầy 
Lách lau đôi ngọn bông gầy thiết tha (1860) 
Bóng chùa lồng với bóng hoa 
Nắng Xuân lóng lánh vừa sa đôi làn 
Núi vuông Thiên Ấn ngọc lam 
Sông nghiêng lụa đậm dấu chàm thiên thư 
Rừng tùng thoảng mõ trầm tư 
Nổi trôi chuỗi hạt thái hư bềnh bồng 
Thảo trường lập phái Thi Tông 
Trường Sơn vẽ một nét cong vách ngời 
Mênh mang mây trải gấm phơi 
Hoa lay tưởng ngọn bút trời phê văn (1870) 
Võng đưa bên suối tẩy trần 
Sỏi xanh vương vần dấu xuân tiên hài 
Đạo tràng chim mở hội mai 
Trầm theo sương đọng trên đài hoa vương 
Quanh co bậc đá vân hường 
Tóc ai phơ phất dòng hương cõi Thiền 
Chùa Văn Chương hiện bên triền 
Mái rơm nhàn nhạt dáng hiền như như 
Đón nàng vào mái Tâm Hư 
Vách treo dòng kệ Thiền sư cảm đề (1880) 
Ngoài hiên hoa nép mây kề 
Tiểu đồng ngơ ngẩn bên hè xinh xinh 
Sư Thầy đương khoá giảng kinh 
Sai trò dâng xuống riêng bình trà thơm 
Sửa sang hoa quả khay sơn 
Lên Chùa lễ Phật bướm vờn loanh quanh 
Cầu tre qua suối trong lành 
Hoa rơi nước cuộn, hoa cành nước in 
Sườn cao vách tím ngàn sim 
Thuyền câu bến nước sào im cắm chờ (1890) 
Trần gian riêng mộng riêng thơ 
Riêng u uẩn núi riêng hờ hững Xuân 
Vẳng đâu sáo quyện suối thần 
Vườn mai hiện mấy văn nhân thưởng trà 
Tao đàn cao giọng ngâm nga 
Thiền sư khoác áo nâu già trầm ngâm 
Tiếng kêu vi vút sơn lâm 
Hoa nghiêng cánh lẳng, hoa thầm nụ khai 
Dừng chân ven suối Thiên Thai 
Âm âm giải nước thay lời luyến thương (1900) 
° ° ° 
Nhớ khi đón lại huyện đường 
Thỉnh Thầy giảng lý Kim Cương độ đời 
Hoặc khi chuyện nước chuyện trời 
Mỗi lời nghe lại mỗi lời thanh cao 
Tiên dung đạo cốt tiêu dao 
Xét ra sư đệ, nghĩ vào tương tri 
Ung dung khi đến khi đi 
Lòng như khối ngọc lưu ly sáng loà 
Trong năm nhờ thỉnh Thầy qua 
Du phương người để cánh hoa võ vàng (1910) 
Sáng nay đầm ấm xuân quang 
Hành hương, mới có dịp sang thăm Thầy 
Lưng non man mác dòng mây 
Trắng in đáy suối, vàng xây thành cầu


XVIII. Khói mờ ngoài sông 

Bức thứ mười tám: 
(Kiều gặp tên tội tù, chính là gã Bán tơ từng giá hoạ 
cho cha nàng. Gã cho biết vườn Thuý bây giờ đang rao bán, 
Vương ông cho lão hầu về chuộc lại) 



Kiều nằm trằn trọc canh thâu 
Tóc mây cài nửa trăng sầu nhạt phai 
Lá lan phơ phất hiên ngoài 
Bóng in vẽ một nét mày quạnh hiu 
Lòng chia trăm mối nghìn chiều 
Gió vô tình để tiêu điều lệ hoen (1920) 
Nhớ từng kỷ niệm thân quen 
Trái tim ấm chút lửa đèn ban sơ 
° ° ° 
Bao năm tưởng đã phai mờ 
Bỗng dưng gặp gã bán tơ năm nào 
Hôm qua cai ngục trình vào 
Một tên tội phạm xanh xao mặt mày 
Xét trong hành trạng người này 
Xưa buôn tơ lụa là tay lẫy lừng 
Gặp cơn binh lửa bỗng dưng 
Thế là sản nghiệp lên từng khói mây (1930) 
Nửa năm lính thú đoạ đày 
Trốn về rồi bị huyện này giữ giam 
Tấm thân tù tội cơ hàn 
Nghe tin sét đánh bàng hoàng bên tai 
Vợ con đã chết vì ai 
Hết lăn lộn, lại nằm dài rên la 
Sáng nay nàng mới nhận ra 
Đứa làm tan cửa nát nhà ngày xưa 
Là thằng vu hoạ Bán tơ 
Quẩn quanh, nào có ai ngờ gặp nhau (1940) 
Gió sương điểm bạc mái đầu 
Mắt sưng chín mọng trái sầu đỏ hoe 
Hắn ngồi nhổ cỏ bên hè 
Xương trơ như nắm xương tre rã rời 
Kiều nhìn, cổ những nghẹn lời 
Thấy chi ngoài một mảnh đời đau thương 
Nàng dò tin tức cố hương 
Hắn rằng có bạn buôn thường lại qua 
Mới hay vườn Thuý quê nhà 
Chủ đang rao bán, chờ ra kinh kỳ (1950) 
Vui buồn hồi tưởng những khi 
Gia đình bàn soạn tính về cố thôn 
° ° ° 
Ông Vương tóc giãi hoàng hôn 
Thở dài lặng ngắm khói dồn ngoài sông 
Hiện ra gốc ổi gốc bòng 
Bên tàng hoa khế tím hong nền chiều 
Lòng ông đau xót bao nhiêu 
Mỗi cây là mỗi ít nhiều vấn vương 
Mả mồ ở chốn quê huơng 
Lạc loài nắm đất tà dương giãi dầu (1960) 
Bà Vương lặng lẽ đâm trầu 
Tưởng khi dòng nước con cầu đón đưa 
Thiếu gì kẻ dạ người thưa 
Ngày xưa ai đó, bây giờ là ai 
Vả chăng xứ lạ quê người 
Riêng tư là thói người nơi thị thành 
Quê nhà dù cất mái tranh 
Mà trong thân tộc, mà quanh bạn bè 
Hiền hoà khóm trúc bờ tre 
Vẳng lên tiếng cuốc sang hè gọi khan (1970) 
Canh cua hoa lý điểm vàng 
Vại cà muối xổi nồng nàn thơm cay 
Trời còn cao, đất còn dày 
Có ao rau muống, có đầy chum tương 
Thân già lãng đãng bóng sương 
Tuổi trời còn lại mấy nương nắng chiều 
Luống khoai, bãi sắn ít nhiều 
Tự tay trồng tỉa muôn chiều thiết tha 
Còn hơn dinh thự nguy nga 
Nhà cao cửa rộng vẫn là của công (1980) 
Tưởng khi vác cuốc thăm đồng 
Mắt bà rơm rớm hai tròng lệ vui 
Còn Kim vẻ mặt bùi ngùi 
Trầm ngâm mắt vọng chân trời xa xăm 
Vân ngồi thêu áo băn khoăn 
Lòng chia hai ngả, khó khăn thốt lời 
Tiểu Nguyện vừa ghé tới nơi 
Mẹ ơi con chẳng muốn rời bà đâu 
Một nhà bàn tán giờ lâu 
Sau cùng ông gọi lão hầu lên sai (1990) 
Sẵn sàng tay nải, sớm mai 
Trở về quê cũ, dặm dài gió đưa 
Hỏi xem vườn Thuý bán chưa 
Liệu mà tâu lại, vàng đưa - về liền 
° ° ° 
Kiều nằm thao thức thâu đêm 
Ánh trăng bạc giắt đầu thềm gió sông 
Nhớ Thầy học cũ – Hồ ông 
Ngày xưa đèn sách – những mong hậu trình 
Thường khuyên: Mình đã loạn mình 
Cái tâm khiến luỵ cái hình lao đao (2000) 
Truyền đời xây tiếp tâm lao 
Cùng giăng bẫy quỷ - cùng nhào khe ma 
Khổ, Vui – từ một cái Ta 
Đã vào tật bệnh, tất ra mê trường 
Thấp-Cao, Chân-Giả, Đoản-Trường 
Chấp tranh máu lệ đau thuơng dẫy đầy 
Biến người thành cỏ thành cây 
Kéo luôn thần thánh tiếp tay tội đồ 
° ° ° 
Cánh buồm phù thế lô xô 
Càng chan chứa mộng – càng cô quạnh đời (2010) 
° ° ° 
Kiều đưa năm ngón rã rời 
Ngó tay mình mỉm nét cười bâng khuâng 
Nàng nghe lòng nhẹ lâng lâng 
Tiếng chim ngoài vọng trên tầng mây cao 
Chim di phiêu bạt phương nào 
Có qua ăn trái rừng đào sớm mai 
Hỏi giùm sứ giả Như Lai 
Làm chi cho sạch trần ai cát lầm 
Làm chi phổ nguyện Quan Âm 
Hay riêng sen trắng giữa đầm đủ chưa (2020) 
Hay rồi một trận gió mưa 
Bùn đen kia hẳn không chừa đài hương 
° ° ° 
Trăng ngoài lóng lánh cành sương 
Hoa nhìn trăng nép bên tường đùa vui 
Dưới hoa dế hát ngậm ngùi 
Trăng nghiêng tai lắng – viền tươi ngọc ngà 
Một trăng đẹp bấy nhiêu hoa 
Mà trăng có biết đâu là – là đâu... 
Ngàn năm vò võ mạch sầu 
Nửa ngâm đáy mắt nửa đầu non xanh (2030) 
Xin trăng soi dọc lộ hành 
Xin trăng chỉ hướng tựu thành mà đi 
Mốt mai cất bước từ ly 
Trăng núi biếc, lệ xanh rì hàn giang 
Một lòng trăng rộng mênh mang 
Trăng đâu riêng của một nàng lầu cao 
Nửa trăng lặn dưới rừng đào 
Còn xin nguyên nửa tan vào mộng ta


XIX. Nàng rằng suối chảy 

Bức thứ mười chín: 
(Đã tậu lại vườn Thuý, ông bà Vương, Thuý Kiều và Hương Nhi 
sửa soạn về quê cũ. Vương Quan ghé lại thăm nói về Ẩn Lan) 



Cuối Xuân đường rụng đầy hoa 
Cánh rơi tưởng nụ mây sa bềnh bồng (2040) 
Kiều ra tựa cửa ngùi trông 
Đồi cao đã trắng mấy bông lau chiều 
Bên dòng lảnh tiếng chim kêu 
Qua cầu vó ngựa rơi đều tà dương 
Cổng tre mái ngói ráng hườn 
Cánh không buồn khép gió vương ơ hờ 
Tiếng ve trong cõi sương mờ 
Ngâm theo xác lá lơ thơ rụng vàng 
Hương nào theo gió tìm sang 
Như chim cánh vượt dặm tràng hoa rơi (2050) 
° ° ° 
Tin nhà đã gởi tới nơi 
Việc xong, lão bộc lên mời về quê 
Phòng riêng sửa soạn bộn bề 
Xôn xao lòng nhớ, não nề lòng xa 
Vương ông cùng với Vương bà 
Thuý Kiều cùng một trẻ là Hương Nhi 
Sửa sang hành lý mang đi 
Mốt mai thắng ngựa trở về cố hương 
Lòng nàng dan díu nhớ thương 
Bước chân tưởng những dặm trường sắt se (2060) 
Chia tay khóm liễu bờ tre 
Sụt sùi cây cỏ còn nghe lệ thầm 
Thôi từ tạ nhé tri âm 
Như sương ta cũng âm thầm nát tan 
Sớm mai phơi chuỗi ngọc lam 
Trang nghiêm một thoáng nhân gian bọt bèo 
Kìa sao thiên lý tiêu điều 
Vẽ chi những nét đăm chiêu ngậm lời 
Nhánh hoa u mặc ngó trời 
Một thân bên giậu mỉm cười héo hon (2070) 
Mây chiều lả xuống sườn non 
Dáng như lác đác hồn con hạc về 
Nửa vàng lau lách sầu chia 
Nửa xanh mây khói đầm đìa mang mang 
Giải hồng cuồn cuộn bến giang 
Buồm dong đôi tấm ráng vàng ngàn xa 
Thành Tây ải đỏ lạc hà 
Theo thuyền man mác cỏ hoa dương chiều 
Vàng ơi chi lắm tiêu điều 
Xanh ơi ngăn ngắt qua đèo hàn san (2080) 
Tím ơi cỏ nội ngút ngàn 
Màu gieo cuối bãi, màu tan ngọn triền 
Chim quyên xuống đất sầu riêng 
Mặt trời thu một hồi chiêng lửa hồng 
Xe ai đẩy hát trên đồng 
Tiếng ca bán rượu từng không lạnh bầu 
Dáng Kiều thơ thẩn vườn sau 
Dấu chân gieo nhẹ dấu sầu vẩn vơ 
Gió vàng áo nhạt màu mơ 
Hoàng hôn toả ngọn khói mờ ai hun (2090) 
Cỏ êm đã thoảng tiếng trùng 
Hoa cau hương quyện vài chum nước ngần 
Gió chiều cũng nhớ giai nhân 
Quẩn quanh theo với bước chân tìm gì 
° ° ° 
Rào tre lả ngọn tường vi 
Tiếng quen ngâm mấy câu thi ngoài tường 
Nàng trông ra thấy chàng Vương 
Ung dung dắt ngựa buộc cương dưới đào 
Hoa hiên cũng lả cánh chào 
Hiên lam Kiều đón em vào vấn an (2100) 
Vương rằng: Rong ruổi quan san 
Ngựa đeo trăng lạnh, vó tan sương chiều 
Cho dù thất suối tam đèo 
Chút hương hoa cũ ướp theo bấy ngày 
Mới về em vội qua đây 
Ẩn Lan gửi lượng trầm này kính dâng 
° ° ° 
Ngó em – Kiều lại thêm mừng 
Hoa in đáy mắt còn rưng rưng lòng 
° ° ° 
Nhà Thầy bên động Huyền Không 
Mái tranh tàng ần thu đông mịt mờ (2110) 
Tóc người đã bạc như tơ 
Bạn thân chim tụ, quân cờ hoa rơi 
Sớm lên đào thuốc dong chơi 
Chiều về dạy học khắp nơi tụ hiền 
Danh thơm đã nức mọi miền 
Làng trong mến chuộng, quan trên nể vì 
Chẳng ham quyền tước kinh kỳ 
Thong dong gậy trúc, đến, đi ngoài vòng 
Rượu thơ phơi phới một lòng 
Trà thơm viết sách, suối trong ngâm mình (2120) 
Xin Thầy được đón về dinh 
Sớm khuya vẹn nghĩa sư sinh một nhà 
Thác rằng tuổi đã nua già 
Núi non mến cảnh, cỏ hoa luyến người 
Ẩn Lan giờ vẫn đẹpp tươi 
Một chiều bên suối ngỏ lời hằng mơ 
Chỉ bông hoa nở ven bờ 
Nàng rằng: Suối chảy có chờ đâu hoa 
Nhắc chi chuyện cũ đôi ta 
Ngày nay Lan vẫn như là ngày xưa (2130) 
Vị gì chung nắng chia mưa 
Giữ thơm mộng cũ ngày chưa ngọc vàng 
° ° ° 
Kiều ngồi nghiêng tựa hành lang 
Gió lùa tóc quyện theo làn hương bay 
Hoa cà ráng ướp hiên Tây 
Sao hôm vừa mọc trên cây suơng chiều


XX. Chải tóc thu phong 

Bức thứ hai mươi: 
(Kiều thăm lại chốn cũ, cho trồng cây Hoàng Mai 
trên nền am xưa. Đạm Tiên nhập thần cảnh tỉnh Thuý Kiều. 
Nàng thăm mộ đàn lần cuối, trước khi hồi hương) 



Rèm đào gió lọt phiêu diêu 
Kiệu phu chừng đã được điều tới sân 
Mây Thu phơi tóc xanh ngần 
Hiên lam nghe rộn bước chân chim vào (2140) 
Tưởng hoa sớm rụng mái cao 
Kiều nằm dõi bóng chiêm bao ơ hờ 
Ngang mình lệch mảnh chăn tơ 
Mắt nhung dịu thiếp đôi bờ cỏ xanh 
Tay dài tơ búp lan nhành 
Dáng Thu lãng đãng nhạt vành trăng cong 
Bên giường chải tóc thu phong 
Tai nghiêng nghiêng cánh sen hồng mát thơm 
Má đào gò ửng tuyết đơm 
Môi in nét trổ nụ hường ban mai (2150) 
Bên song khép nép lan đài 
Hoa trong thiêm thiếp hoa ngoài bâng khuâng 
Hương đêm còn thoảng lâng lâng 
Chăn tơ phủ xuống như tầng hoàng hoa 
Đôi hài cong mũi kiêu sa 
Im im lắng tiếng chim ca ngoài vườn 
Nghĩ ra nay sớm hành hương 
Vươn vai Kiều dậy, ngắm gương tần ngần 
Hương nhi đem áo lại gần 
Khoác lên vai ngọc gò xuân mịn hồng (2160) 
Qua hiên bướm nổi bềnh bồng 
Tung tăng gió vuốt vài bông cúc hiền 
Vườn ngoài non nỉ yến uyên 
Xách hoa lên kiệu gót tiên dịu dàng 
° ° ° 
Đồi thưa lấm tấm bông vàng 
Hoa Thu hỏi mấy lần sang đất này 
Đổi thay từng khắc từng ngày 
Mà vòng nguyên định chen đầy hoa dung 
Xét trong trời đất vô cùng 
Biển dâu sắp đặt lạ lùng cao xanh (2170) 
Bao nhiêu cung điện tan tành 
Xô đi, dựng lại dưới vành trăng tươi 
Thăng hoa cuộc sống con nguời 
Phế hưng trải rộng lẽ trời tự nhiên 
Đường dài sỏi nhạt thu thiên 
Trước sau biết mấy gót phiền qua đi 
Bóng người cổ tích còn chi 
Còn nghe gió kể chuyện gì bên nương 
Bước nào ngượng ngập yêu đương 
Bước nào rầm rập giáo gươm chói loà (2180) 
Bước nào lay lắt nua già 
Bước nào xe ngựa lại qua rộn ràng 
Nhớ không ngọn cỏ may vàng 
Ngày xưa lữ khách qua đàng còn không 
Hỏi mây mây trắng như bông 
Riêng đường sương tụ bụi hồng trăm năm 
Bãi sông cỏ lạnh căm căm 
Tưởng Từ áo vải xưa nằm chốn đây 
Phách thiêng khí vẫn loà mây 
Xưa ai trộm xác gò này mang đi (2190) 
Xưa ai đạp vỡ mồ bi 
Gò xưa còn bãi cỏ chi rầu rầu 
Tưởng chàng bẻ kiếm dựng râu 
Nốc nghiêng bát rượu, trên đầu cài trăng 
Cuộc ra vùng vẫy chim bằng 
Cuộc về đồn ải mưa giăng bóng cờ 
° ° ° 
Kiều ngồi như ngẩn như ngơ 
Dường đâu lãng đãng trong mơ hiện về 
Lâng lâng hương cận hoa kề 
Đạm Tiên buông giải tóc thề vương vương (2200) 
Tiếng nàng thoang thoảng khói hương 
Rằng: Không có hội đau thương đoạn tràng 
Quả, Nhân – tôi trót lỡ làng 
Khiến em vào chị - giục đàng trầm luân 
Giờ nên đuổi mộng khỏi thân 
Nhiều vương vấn cũ – dễ phần chiêu ma 
Dáng nàng lãng đãng mưa sa 
Giật mình mới biết mộng hoa lúc nào 
Vào Thu chim cũng xanh xao 
Tiếng kêu theo gió thoảng vào rèm thêu (2110) 
Não nùng thay nỗi lòng Kiều 
Nhìn bông lan ngọc đăm chiêu nền trời 
Hồn Tiên nhắn nhủ chơi vơi 
Chừng nghe còn vẳng trong lời hoàng khuyên 
° ° ° 
Nền xưa kiệu đã dừng nghiêng 
Dây hoa núi dại vàng nguyên ngọn tường 
Tàn lan lóng lánh hàng sương 
Hoa chao nhỏ hạt nước hương rùng mình 
Chập chùng đồi núi lung linh 
Vén rèn, xuống kiệu, dáng quỳnh mông lung (2120) 
Rã rời từng bước rêu nhung 
Hài reo giữa cõi vô cùng hoang mang 
Truyền phu đem cội mai vàng 
Trồng lên trên đỉnh nền hoang cỏ dày 
Giác Duyên thầy có về đây 
Trông hoa xin tưởng vóc gầy Kiều nhi 
Hoa này là nguyện đại bi 
Giữa đông, vàng rộ sá gì phận côi 
Thân con dù chốn xa xôi 
Lời Thầy, sóng dậy gió dồi dám quên (2230) 
° ° ° 
A hoàn sắp lễ dâng lên 
Sợi hương tím loãng trên nền cỏ cao 
Chắp tay khấn nguyện thì thào 
Khay hoa đậu cánh chim vào bỗng nhiên 
Kiều xin: Có phải Đạm Tiên 
Hương linh còn quyện chút duyên má hồng 
Cảm nhau – một sợi tơ đồng 
Thì xin bay đậu cành bông mai vàng 
Hoặc Từ dũng khí hiên ngang 
Anh linh lưu luyến trần gian chẳng lìa (2240) 
Đồ vương nuối mộng xưa kia 
Hay còn vì thiếp, chưa chia ngả đường 
Thì xin bay xuống đầu tường 
Khấn xong, chim cất cánh hường bay đi 
Lưng trời buông giọng từ quy 
Đáp vào rừng vắng như vì sao sa 
Run run Kiều chắp tay hoa 
Cúi đầu lễ vọng, hương nhoà khoé môi 
Tiếng chim lảnh lót bên đồi 
Dường như thê thiết bồi hồi bụi mưa (2250) 
° ° ° 
A hoàn lại cất tiếng thưa 
Thỉnh bà lên kiệu, cơn mưa – kịp về 
Ở đây sầu lặng buồn tê 
Sơn lam chướng khí lỡ bề ốm đau 
° ° ° 
Kiều nhìn phơ phất hoa lau 
Ngọn cờ tập trận - ngày đầu thơ ngây 
Đã vàng dặm cát đồi mây 
Thêm hiu hắt gió ngàn cây vật vờ 
Tàng hoa lan cũ trông chờ 
Vẻ đang thiêm thiếp giấc mơ tuyệt vời (2260) 
Mốt mai ta ở chân trời 
Riêng hoa còn mãi – sương rơi một tàng 
Rừng hoang trả lại rừng hoang 
Cội lan kia liệu hoa vàng bao Thu 
° ° ° 
Nhớ hồi Thầy lập am tu 
Chọn đây là cảnh thâm u hữu tình 
Sớm chiều niệm Phật nghe kinh 
Mảnh trăng ẩn chốn phù sinh điêu tàn 
Một chiều trồng gốc ngọc lan 
Thầy rằng: Mai mốt còn làn hương bay 
Đời người như cánh hoa lay 
Trần gian thơm một đôi ngày lại thôi 
Giờ Thầy Tam Hợp đâu rồi 
Nhớ ai hoa lạnh lùng rơi cánh buồn 
Lan còn hoa lệ sầu tuôn 
Hương bay vơ vẩn dõi muôn hướng tìm 
Mốt mai ta cũng theo chim 
Về thâu ngọc rớt vàng chìm sông Ngô (° ) 
Đêm đêm tơ tưởng đi mò 
Sông Thương hoa có neo đò nhớ thương (2280) 
° ° ° 
Kiệu phu lại thỉnh lên đường 
Hồn lâng lâng kiệu, hồn vương vương rừng 
° ° ° 
Lá đưa khăn lệ rưng rưng 
Nhắn nhe chim cũng lạnh lùng tiếng ca 
Sông buồn đỏ quạnh âm ba 
Mây đưa đỏ bãi hoàng sa lạnh lùng 
Mắt buồn vời vợi mông lung 
Tiễn chân cội đá khóm tùng, ngất ngây 
Con tim chôn lại rừng này 
Theo hoa rụng xuống chân Thầy hôm mai (2290) 
Những đêm chớp biển mưa dài 
Hồn bên núi, xác phương ngoài – thảm chưa 
Mỗi xa mỗi bước rừng thưa 
Yên hà theo tiếng đò đưa thuyền về 
Chợ chiều rạ nhạt mái quê 
Hắt hiu gió gợn tái tê sóng trường 
Sào ai phất phới mây hường 
Nhịp hò mái đẩy khói sương ngút mù 
Kiều truyền kiệu ghé gò Thu 
Mộ đàn hoa nở âm u lối mòn (2300) 
Một gò cỏ úa héo hon 
Xưa kia Từ Hải – cũng chôn gò này 
Bây giờ liệt sĩ nằm đây 
Mộ đàn – thêm trắng một cây đoạn trường 
Lòng Kiều chín nhớ mười thương 
Hai mồ ngát một tuần hương Thuý Kiều 
Áo bay lẫn giữa mây chiều 
Bâng khuâng suối tóc, đăm chiêu nét ngài 
Chim nào hót giữa lùm mai 
Chừng như thoảng tiếng thở dài trên yên (2310) 
Gò xanh thơ thẩn gót tiên 
Chân trời cõi đất hai miền sầu chia 
Xương tàn nấm đất ai kia 
Núi sông – không một tấm bia để đời 
Anh em chí cả nghiêng trời 
Lòng chung chẳng thể tách rời – Bắc, Nam 
Vẫy vùng một cõi giang san 
Thương người cơ cực, chém quan tế cờ 
Ai từng tuốt kiếm ngâm thơ 
Chí toan sắp lại ván cờ máu tươi (2320) 
Ai từng nốc rượu cả cười 
Sau rung tiếng hát giữa nơi chiến trường 
Tưởng khi cờ cuộn mây vương 
Thành cao ném một ngọn thương san bằng 
Bây giờ mây uốn ngành trăng 
Gió ù cổ miếu, nhện giăng chiến bào 
Mồ chung le lói vì sao 
Hồn oan tử sĩ xạc xào cờ lau 
Cỏ hồng đỉnh núi thay màu 
Tưởng như sắc ngựa Phong Châu anh hùng (2330) 
Còn đâu trống giục kiếm cung 
Chiều nay ếch nhái lạnh lùng khua xa 
Trăm năm còn lại gò hoa 
Lất lây giải ánh lạc hà cô thôn 
° ° ° 
Nhà ai hun lá bên cồn 
Nhìn mây phu kiệu bồn chồn ngồi quanh 
Bãi sông rải rác mái tranh 
Trẻ vui ném sỏi dưới cành dương khô 
Sườn non nửa mảnh trăng nhô 
Cong thành một nét mơ hồ mi ai (2340) 
Lại nghe trong cội hoa mai 
Bật thêm tơ tóc rùng vai đàn bầu 
° ° ° 
Nàng dừng lắng đợi âu sầu 
Quả như tiếng vẳng hương lầu trước đây 
Hồn ai nấc tiếng ngân này 
Xưa nương đàn cũ, giờ cây mai vàng 
Tiếng ngân chìm đắm mơ màng 
Một dây to nhỏ hồn man mác trời 
Buông chi tiếng nhặt tiếng lơi 
Trong u ẩn gió nghe tơi tả lòng (2350) 
° ° ° 
Kiều còn thơ thẩn tiên dong 
Núi xa nhoà mấy vành cong sương mù 
Quạt trần khép mở vân du 
Hoa dung đáy nước cho dù khói vương 
Bâng khuâng bước dạo cầu sương 
Tóc bay dài một dòng hương la đà 
Có nàng cắp rổ bèo hoa 
Vén quần cánh nhuỵ lội qua sưối về 
Bè ai thả vó ven đê 
Nửa ngâm ráng đỏ, nửa kề mây xanh (2360) 
Gió Thu hiu hắt lùa nhanh 
Đáy khe cát trắng long lanh ngấn trời 
Qua cầu suối cũng đua tươi 
Bờ vai phơ phất tóc xuôi hững hờ 
Trên dòng tơ, dưới dòng tơ 
Hai dòng thêu một đoá mơ nhạt nhoà


XXI. Tơ thiêng nhập hoá 

Bức thứ hai mươi mốt: 
(Kiều hồi tưởng buổi tối đánh đàn cho Kim Trọng và sư thầy 
Văn Chương nghe - Nhà sư trợ điển giúp Kiều tỉnh thức khỏi 
nghiệp đàn, hoà tâm cảm vào thiên nhiên đại đạo) 



Ngoài sân buông nắm tơ ngà 
Đêm Thu bắc chõng, Kiều ra ngó trời 
Ai treo chiếc ấn trăng ngời 
Đóng lên mấy giải mây dời mơ xanh (2370) 
Ấn trang nhỏ mực loang cành 
Con chim khách lạ bỏ nhành liễu bay 
Giọt trăng là hạt rượu say 
Vò trăng hoành thạch nghiêng đầy giàn dưa 
Gió lay vàng rụng như mưa 
Tưởng đâu âm vọng chuông chùa Văn Chương 
Trăng chân thường giữa vô thường 
Ánh trăng như với dạ hương hẹn hò 
Bây giờ cửa núi quanh co 
Trăng ơi có đổ đầy vò tâm ai (2380) 
° ° ° 
Nhớ hồi trên các Sương Mai 
Dâng Thầy Văn, được so vài cung tơ 
Ba người chìm lắng đêm thơ 
Âm dư tiền kiếp nghìn xưa dồn về 
Lòng riêng phiêu hốt đê mê 
Trời riêng nguyệt cận hoa kề bâng khuâng 
Mây ùn mười ngón lâng lâng 
Viền trăng hư ảo trên tầng khói xây 
Đất dồn nhựa mạch ngất ngây 
Ánh trăng đọng xuống mấy dây lặng chìm (2390) 
Tiếng nào bàng bạc ngàn sim 
Tiếng nào mạch máu ngàn tim rung thành 
Cây đàn tự vỡ nên thanh 
Tiếng đàn óng ánh trên nhành đọng sương 
Sóng đàn là giải thoát hương 
Dây đàn bốn mạch chân thường thiết tha 
Song ngoài chênh mảnh gương nga 
Áo người nhuốm nguyệt lay tà hàn quang 
Hương trời bát ngát mênh mang 
Sao trời lấp lánh, nến vàng lắng chia (2400) 
Bên này trầm mặc trăng nghe 
Bên kia sao kết đôi bè âm thanh 
Tay là sao hiện lên nhành 
Mười phương đổ xuống đan thành áng tơ 
Tóc huyền giải suối phất phơ 
Sông Ngân nước chảy qua bờ vai nghiêng 
Tay nào đẫm hạt trăng thiêng 
Hào quang lấp lánh một viền tâm hư 
° ° ° 
Dáng Thầy trầm mặc hiền từ 
Áo nhoà hạt quyện áng tơ vô vàn (2410) 
Tiếng tơ theo gió hoà tan 
Một chùm sao gãy, một làn trăng rung 
Cỏ cây cảm ứng vô cùng 
Chừng như xao động say vùng âm ba 
Lòng thiền trợ điện tố nga 
Phá tan cái nghiệp dư ba tội tình 
Sóng đàn tiền kiếp lung linh 
Bao năm xô đầy thuyền tình trăng ai 
Hạt sương lóng lánh lăn dài 
Cành đêm chợt rụng một vài sao băng (2420) 
Ba người ngồi đắm hiên trăng 
Tâm tư hoà dệt cung hằng phân vân 
Hơi thanh thoát chí hiền nhân 
Cung phong nhã khách, tiếng ngần ngại hoa 
Còn gì ngoài những thiết tha 
Ba lòng ứng một tay ngà mưa rơi 
° ° ° 
Kìa xanh xanh ngắt tơ phơi 
Kìa thăm thẳm nỗi hoa dời cành trao 
Là chi bát ngát trời cao 
Là chi hiện tướng trăng sao vô cùng (2430) 
Là vô thuỷ gặp vô chung 
Là chan chứa nguyệt năm cung sương mù 
Là hương rạo rực rừng Thu 
Cò bay theo trắng tiếng ru mẹ hiền 
Bản đàn khói lượn đền thiêng 
Tiếng con linh phượng nhiệm huyền chợt bay 
Nửa đời mệt lả đôi tay 
Trái tim siêu thoát sum vầy xa xăm 
Âm dư man mác hiên trầm 
Dường đâu vô vạn tơ tằm dệt đan (2440) 
Viền trăng dính giữa nền lam 
Phơi nghiêng nụ mướp trên tàn thu thanh 
Phím đàn cánh bướm vờn quanh 
Nến hồng tay ngọc, trầm xanh màu vòng 
Bước tơ cao thấp long đong 
Cảm ngoài như thiếu tình trong như thừa 
Dường như trở gió sang mùa 
Dường như réo rắt tơ mưa ngoài trời 
Lúc trầm mặc lúc chơi vơi 
Khi hong vẻ thuý, khi phơi dáng vàng 
Dưới hoa cỏ ngẩn ngơ hàng 
Trên sương trăng gõ tình tang dặt dìu 
Sóng tơ hoà vận nên Kiều 
Lòng ai vừa đổ cơn triều biển dâng 
Hơi đàn siêu thoát lâng lâng 
Mỗi tơ cảm ứng mỗi tầng thiên nhiên 
° ° ° 
Tưởng ngày dưới mái đông hiên 
Nụ hoa như ngón tay hiền chỉ đưa 
Cánh chim vượt cõi sương mờ 
Trang Kinh ẩn những bài thơ giải trần (2460) 
Khiến mình sương khói phân vân 
Khiến mình tĩnh ý xuất thần bâng khuâng 
Đêm rồi lả ngọn tơ dâng 
Thành đàn tan biến trong vần trăng lơi 
Cỏ hoa hiện tướng tự ngời 
Ngón tay măng trúc run lời nguyên âm 
Kim ngồi bóng nguyệt trầm ngâm 
Ba lòng chung một ý cầm hoà tan 
Tâm hư ai dạo nên đàn 
Năm cung tẩm nguyệt vô vàn tơ bay (2470) 
Gió ngừng ngan ngát hương say 
Riêng quỳnh hoa hé nét mày trong sương 
Cỏ ngàn thấp thoáng đêm vương 
Sóng vàng chan chứa khu vườn hào quang 
Xưa mênh mang giờ mênh mang 
Còn chi giữa thể Đạo, Đàn chia đôi 
Hiên hoa lãm thuý bồi hồi 
Tơ nghiêng nhập hoá ba người thẩm âm 
° ° ° 
Bây giờ còn vắng trong tâm 
Đâu không là khúc nguyệt cầm gió mây (2480) 
Tơ thương cỏ úa hoa gầy 
Tơ thương cánh bướm lạc bầy phân vân 
Tình vương cho nụ tầm xuân 
Đất trời thu lại một nhân uyên tuyền 
Tầng tầng lớp lớp thiện duyên 
Huyền cơ mở đóng, chung riêng vẹn toàn 
Lạ thay cũng một ngón đàn 
Mà trong tương ứng vô vàn khác xa 
Người đạt đạo kẻ tài hoa 
Tiếng đàn chừng mở riêng ra mỗi trời (2490) 
Chàng Kim áo nguyệt lay ngời 
Thầy Văn chừng để chí nơi vô cùng 
Trăng nhoà ảnh đậu mông lung 
Đất trời hội lại năm cung lặng chìm 
° ° ° 
Tóc Kiều xoã một dòng im 
Quạt trần phe phẩy sao in nhạt nhoà 
Bóng nàng lồng dưới bóng hoa 
Nhiệm mầu trăng cẩn tay ngà dưới chân


XXII. Mây thu cuộn vàng 

Bức thứ hai mươi hai: 
(Kiều từ giã cỏ hoa, hoạ thơ tiễn biệt, 
lên đường về quê) 



Canh gà eo óc hương lân 
Đã nghe nhà dưới gia nhân dậy rồi (2500) 
Ngoài ao xốc gạo đồ xôi 
Tiếng con chó Quít buông hồi sủa trăng 
Sương mờ ngõ trúc giăng giăng 
Lá Thu hiu hắt qua mành rung êm 
Nhành lan sương trĩu đầu thềm 
Vẻ như phờ phạc trắng đêm đợi ngày 
Song hồng phơn phớt trăng lay 
Kiều ra sân dạo – đóm bay nhạt dần 
Gạch vuông từng mảnh sao ngần 
Tóc nàng tưởng dấu phù vân lay mờ (2510) 
Bếp xa ngọn lửa vật vờ 
Dưới giàn bầu nậm, Quít chờ vẫy đuôi 
Côn trùng ri rỉ im hơi 
Cỏ cây chừng cũng run lời tiễn đưa 
Cố hương đằng đẵng gió mưa 
Bao năm xa cách ai ngờ - còn khi 
Dặm về tưởng dặm từ ly 
Hoa sim tím chết ngày đi theo chồng 
Cánh chim Hát Núi ngoài đồng 
Tiếng ca bay vút từng không khói mù (2520) 
Cỗ xe gỗ liệm hồn thu 
Ngựa thiên lý soãi gật gù vó bay 
Đưa tay đồi trắng ngàn mây 
Đón ta lau lách có gầy thu dung 
Cầu ao lợp bóng tàng sung 
Còn rơi trái đỏ vương cùng nỗi mong 
Núi Diều xanh gợn đường cong 
Buồn lên hiên cỏ lại trông chiều về 
Bãi mồ biêng biếc tiểu khê 
Mùa Xuân tìm hỏi đoá lê thuở nào (2530) 
Còn ai qua ngõ bưởi đào 
Dừng chân mà nhớ hoa nào ngẩn ngơ 
Còn chăng suối đợi non chờ 
Cồn vàng nổi gió, sông tơ cuộn hình 
Bao năm sưởi ấm lòng mình 
Ai xưa đốt đuốc, ca tình - còn vang 
Đường trần bạc áo nữ lang 
Tiếng ca nâng bước lỡ làng, phân vân 
Làng quê đòi đoạn muôn phần 
Có đêm trở giấc mắt ngần ánh sương (2540) 
Mộng về hư ảo cố hương 
Mừng sao, muốn nuốt dặm trường cỏ non 
Lô nhô hoa trắng đồi son 
Chan đầy âm điệu lối mòn chim vui 
Nhưng rồi khi giấc mơ lùi 
Thêm ngao ngán dạ, thêm bùi ngùi châu 
Đành thôi bọt nước qua cầu 
Tương lai còn lại chút màu thiên thanh 
Tấm lòng bát ngát mây xanh 
Mà đời giam héo một cành thu ba (2550) 
° ° ° 
Kiều nhìn trăng khuất rừng xa 
Còn loang bụi phấn ngà ngà khói sông 
Tiếng chim thảnh thót giàn đông 
Mừng vui gọi áng mây bồng bềnh tơ 
Bướm bay từ cội sương mờ 
Cánh tung nắng mới qua bờ thảo phương 
Nụ hoa thức giấc bên tường 
Vô tình để ửng má hường nắng trong 
Đèo xa phơn phớt cỏ bồng 
Cành đa oằn một nét cong trữ tình (2560) 
Nhện giăng nội cỏ băng trinh 
Từng dây lưới ngọc in hình sao tan 
Xanh, Lam, Trắng, Tía, Đỏ, Vàng 
Long lanh làm đẹp mấy hàng hoa thu 
Người buồn lãng đãng sương mù 
Gió tai tải lạnh về ru nét mày 
Đồi tùng mờ mịt sương bay 
Nàng thầm lặng hướng một ngày xa khơi 
Xin từ tạ hạt chuông lơi 
Tiếng ngân tự thể sáng ngời Văn Chương (2570) 
° ° ° 
Ngậm ngùi khi sắp lên đường 
Đã nghe tiếng ngựa buộc cương rặng đào 
Chàng Kim thong thả đi vào 
Gió lay giải mũ xanh xao lá quỳnh 
Mắt ai chôn một trời tình 
Bóng sương thấp thoáng đôi hình khói mây 
Ngẩn ngơ sỏi đá nhìn cây 
Nao nao gió lạnh liễu gầy hỏi nhau 
Hoa rơi hai kẻ cúi đầu 
Chia tay ai chẳng ưu sầu như ai (2580) 
Lao xao tiếng vọng hiên ngoài 
Nhác trông đã thấy ba người tìm qua 
Nguyện theo tay níu áo bà 
Vân xem ái ngại nét hoa phớt buồn 
Bà Vương nôn nóng lên đường 
Tưởng như muôn dặm bụi hường giục xe 
Thôi thì to nhỏ nhắn nhe 
Mỗi câu thêm lại buồn nghe ngậm ngùi 
Xe phu loáng thoáng đôi người 
Lên đem hành lý nàng dời lầu mai (2590) 
Kiều vào sửa áo trâm cài 
Giò lan bạch ngọc vươn dài ngọn trông 
Cửa hờ, giường quạnh lầu không 
Ngoài sân Thu cúc trổ bông sớm vàng 
Mắt nhìn bốn hướng mênh mang 
Vuốt ve hoa cỏ, lên đàng về quê 
Mây trôi từng cụm ven đê 
Người đi kẻ ở sầu tê lòng quỳ 
Có ai mai mốt buồn chi 
Lên lầu tựa ngó những khi nắng tà (2600) 
Một phương rầu rĩ cỏ hoa 
Một phương lau lách nhạt nhoà thu phong 
Một phương xoã tóc chiều hong 
Một phương nhớ mảnh trăng cong nét mày 
Hai phương gió dạn mưa dày 
Đường đi ngại những non mây mịt mù 
Rừng buồn rung trái sầu u 
Người buồn phủi hạt mưa thu bẽ bàng 
° ° ° 
Hương nhi vội vã tìm sang 
Dâng lên đã nhác đôi hàng đề thư (2610) 
Hương rằng: Có một nhà sư 
Sớm nay tìm đến thưa: Từ chùa Văn 
Thư này gửi đến phu nhân 
Bây giờ chú hiện nghỉ chân nhà ngoài 
Ngập ngừng nàng mở xem ngay 
Mười bài tiễn biệt nhủ ai đăng trình 
Mỗi bài là một bài Minh 
Nghĩa sâu mối Đạo, chữ linh tụ thần 
Đọc xong Kiều lặng phân vân 
Bâng khuâng vóc liễu – tần ngần mày hoa (2620) 
Mắt nàng trầm lắng thu ba 
Ý lên đỉnh núi, chữ nhoà lòng trang 
Tay tiên rạng ngọc tươi vàng 
Thảo bài Đường luật liên hoàn phiêu diêu 
Gói trong một giải lụa điều 
Tạ lòng tri kỷ ít nhiều vấn vương 
Cho đem thơ lại khách đường 
Hiên Tây ngơ ngác chùm hương gượng cười 
° ° ° 
Tiễn đưa xoắn xuýt bao người 
Ba xe ngựa hướng chân trời xanh xanh (2630) 
Nẻo đi dằng dặc mây thành 
Bóng mây trĩu nặng mấy cành hắt heo 
Quan, Kim sóng ngựa đưa theo 
Chân non cát đỏ, lưng đèo sương bay 
Dùng dằng tay lại cầm tay 
Sầu Thu chan chứa giọt đầy giọt vơi 
Bánh lăn cọc cạch rả rời 
Ngựa say mây nhớ phương trời chảy đi 
Não nùng hai tiếng từ ly 
Buồn thưa thốt miệng, sầu chi chít lòng (2640) 
Qua khe ngó cá lòng tong 
Áo xanh ai đó in dòng suối xanh 
Nhớ nhà xe cuộn thêm nhanh 
Ải xa cổng đỏ mấy nhành hồng mai 
Đầu sông ai hát Nam Ai 
Giọng cao nước chảy, giọng dài đò đưa 
Nỗi buồn ngàn vạn xa xưa 
Luồn theo mạch máu bây giờ chưa tan 
Tiếng ca ngơ ngác lau vàng 
Lồng trong khói sóng tràng giang rụng rời (2650) 
Chim bói cá biếc mây trời 
Ven sông đậu hót trông vời nước mau 
Gió Thu san sát bông lau 
Giục người quẩy gánh hát câu ề à 
Bóng ai đã khuất cồn hoa 
Còn nghe gió thoảng tiếng ca ơ hờ 
Cỏ tranh ngoài nội bạc phơ 
Gió lay lay tưởng sóng vờ vật xuôi 
Tiễn theo mấy đoạn bùi ngùi 
Bẻ hoa rượu nhớ, gượng vui lên đường (2660) 
Kim, Quan dưới liễu gò cương 
Cỗ xe bánh đạp sỏi hường – tung bay 
Ngựa xuôi bờm dựng hí mây 
Bạn về hoa cũ giục hoài không đi 
Ngậm ngùi cu gáy từ ly 
Héo lòng ai có thương gì chim cu 
Con xe gỗ vượt dặm mù 
Mui cao chở những mây Thu cuộn vàng 
° ° ° 
Kiều ngồi hướng mắt mơ màng 
Chí cao Từ Hải - thiên đàng Phuơng Đông (2670) 
Vó câu vi vút non bồng 
Đàn xanh yên ngựa gươm hồng bóng trăng 
Hoa giờ còn đợi mưa giăng 
Cỏ cây nhớ cánh chim bằng đợi tươi 
Rừng Thu nhớ trận cả cười 
Cờ mây lá nhớ vọng trời Đại Nam 
Mắt xanh đây cửa khải hoàn 
Chờ trông chỉ thấy gió quan san về 
Dường trong hiu hắt sương kia 
Như đâu thấp thoáng nhành bia sa trường (2680) 
Sóng dài lấp lánh làn gươm 
Đồi phơi áo trận phong sương đổi màu 
Khí thiêng lau lách rầu rầu 
Người đồn: Gươm giáo đêm thâu rộn ràng 
Lên non trẻ hái hoa vàng 
Còn reo nhặt được kiếm han rỉ cùn 
Đêm về bần bật kiếm run 
Mồ hôi thép toát hiện hồn ba quân 
Rừng vương cốt ngựa trắng ngần 
Kiếp người mây nổi một lần qua mau (2690) 
Nghìn xưa lưu lại nghìn sau 
Còn chăng rêu mộ trơ màu vàng xanh 
Lại sông loang máu hùng anh 
Trăm năm đáy nước kết thành ngọc trai 
Người đem giũa chiếc trâm cài 
Trăng lên thoảng tiếng thở dài ngọc xưa 
Dường trong ánh chớp tơ mưa 
Có hồn tử sĩ vất vơ chửa tàn 
Cõi đời chất ngất hờn oan 
Cuộc cờ bày xoá mấy bàn đua tranh (2700) 
Ném ra xe ngựa tung hoành 
Thu về còn lại một vành trăng suông 
Bể dâu thay đổi bao tuồng 
Cái chi còn lại trong luồng gió xoay 
Bàn tay tiếp nối bàn tay 
Trả vay vay trả đoạ đày mãi nhau 
Một bầy tâm bệnh khổ đau 
Nghìn xưa vạch sẵn nghìn sau – một đàng 
Nghìn dòng máu lệ mênh mang 
Biết bao giờ mới chỉnh trang nguồn đời (2710) 
Núi sông rực rỡ con người 
Mở trang sử mới nơi nơi đẹp lành 
Cõi lòng bát ngát mây xanh 
Đổi xoay đương thức kết thành thiện duyên 
Giữa đời Tự Chỉnh như nhiên 
Trăm năm thoát mối đảo điên buộc mình 
Cho bao sỏi đá hồi sinh 
Bốn phương chung hưởng thái bình thịnh an 
° ° ° 
Cỏ cây thấp thoáng qua màn 
Dập dồn vó ngựa gõ khan mặt đường (2720) 
Non xa tím ngắt mây vương 
Sông xanh trời nhuộm, đồi hường nắng hong 
Tưởng ngày hoa lạc long đong 
Niềm quê sợ cả nỗi mong vụng thầm 
Sợ nhìn vóc núi trầm ngâm 
Tưởng đâu thành quách giam cầm chim bay 
Sợ đêm tơ tưởng bóng mây 
Oán sao trời đất đoạ đày mình riêng 
Sợ trông hoa lả trăng nghiêng 
Thêm đau đớn phận – người chuyên tay người (2730) 
Ngại trông xuân trổ màu tươi 
Bẽ bàng thêm nữa buồn ơi là buồn 
Ngại gì non đổ suối tuôn 
Nước đi có biết cành hương phai tàn 
Ngại trông xe cuộn bụi đàng 
Hồn quê theo dặm mây vàng giục xuôi 
Dối mình đùa cợt làm vui 
Lại nghe tẻ ngắt nụ cười tái tê 
Dám mong chi nữa ngày về 
Chân mây cỏ áy não nề một phương (2740) 
Bây giờ rong ruổi mây vương 
Mây bay tưởng những dặm trường thăng hoa 
Ngỡ cây đa đợi quê nhà 
Ai lên Quán Dốc hát mà trách ai 
Đá non hỏi nước sông dài 
Hoa trôi một thuở u hoài còn riêng 
Đèn còn sợi khói xanh thiêng 
Cho bông tầm gửi láng giềng còn leo 
Còn cây trúc đợi trăng treo 
Hỏi hoa vương giả có neo cánh tình (2750) 
Từ hoa đổ chuyến đăng trình 
Người qua ngõ nhỏ chạnh tình khóc hoa 
Lên nương có hái bông trà 
Ngó mây tím chết ngỡ tà áo bay 
Trở về chếnh choáng men say 
Chờ hoa bưởi rụng đưa tay đỡ buồn 
Giờ ta về lại cô thôn 
Liệu con nhện cũ neo hồn sầu chăng 
Cho dù trúc đã đâm năng 
Miếng trầu vôi đỏ dùng dằng trao thơ (2760) 
Đêm đêm cung nguyệt lay mờ 
Tưởng đâu con sáo bây giờ qua sông 
Xin từ tạ những ngùi trông 
Cho tôi quên nhé những bồng bềnh xa 
Tạ từ khe quỷ đường ma 
Cho tôi dựng lại mái nhà nhân gian 
Xin cùng cỏ biếc quá quan 
Một đường nhân ái rẽ làn mây bay 
Trong xe nàng nhẹ quơ tay 
Ngoài đồng lúa đã dâng đầy lúa hương (2770)


XXIII. Bao năm tơ tưởng 

Bức thứ hai mươi ba: 
(Kiều nhìn qua màu xanh vách núi cố huơng mới ngộ ra chính 
hoàn cảnh thiên nhiên và thân thuộc ban đầu đã tạo nên 
tâm thức nàng - chỉ có quê hương mới mang lại thứ 
chân hạnh phúc – viên Ngọc Báu trong mình mà mãi lãng quên) 



Kiều qua muôn dặm bụi hường 
Thôn mây vần vũ, quán sương rạc rời 
Vượt non xe kiếm mặt trời 
Sang sông ngựa hí trông vời nước xanh 
Xe theo vó đổ mưa nhanh 
Người qua đồn cũ ngó thành rêu trơ 
Núi non thấp thoáng sương mờ 
Rõ ràng đâu phải giấc mơ đêm tàn 
Chao ơi suối tía đồi lam 
Bao năm tơ tưởng lòng tam tứ sầu (2780) 
° ° ° 
Cỏ cây xưa vẫn xanh màu 
Xanh ơi! Một cõi nhiệm màu trong ta 
Xanh từ mấy chục năm qua 
Dạy người khôn lớn yêu nhà yêu quê 
Ta đi – xanh gọi ta về 
Nôi ru trời đất bốn bề trăng sao 
Mặt trời luyện chí người cao 
Núi non giục vượt ba đào đấu tranh 
Cỏ hoa dậy đức hiền lành 
Chim muông nhịp bước xuân hành tiến đi (2790) 
Mây bay nhủ lẽ từ quy 
Mãi quên một cõi lưu ly toả ngời 
Mùa Xuân dậy lý đất trời 
Mùa Thu dậy tiếng ru hời gió thu 
Mùa Đông để trán ưu tư 
Hạ Vàng để mắt trầm từ thâm sâu 
Dậy hoà bốn biển năm châu 
Dậy khai địa ngục, dậy xâu mộng vàng 
Bản di chúc toả hào quang 
Mẹ, Cha thầm nhủ con đàng – vượt lên (2800) 
Lòng chung bát ngát cõi Tiên 
Trí ngời quẫy khúc Rồng thiêng vẫy vùng 
Giờ đây tâm trí tao phùng 
Tái sinh giữa tấm lòng chung sơn hà 
Xanh xanh đất mẹ hiền hoà 
Giang tay ôm đứa con xa bấy ngày 
° ° ° 
Nàng còn mặc khải ngất ngây 
Non cao phục xuống một bầy voi xanh 
Dây diều đây dựng quách thành 
Non ơi non vẫn yên lành đó non (2810) 
Ô kìa! Ngũ Nhạc chon von (° ) 
Mai Sưu vươn ngọn hao mòn bạc sương 
Phượng Hoàng núi nghỉ cánh hương 
Bao năm theo gió tha phuơng gọi người 
Triền này, Cổ Vịt rừng tươi 
Triền kia, Đá trắng là nơi trại mình 
Nương khoai gốc sắn là tình 
Cỏ hoa mây suối tạc hình vóc ai 
Nhìn ra tre trúc vươn dài 
Cầu Giòng thôn, khói bay vài sợi lam (2820) 
Suối giăng lấp lánh tơ ngàn 
Đồi kia gởi nấm mộ tàn hoa leo 
Xe qua đàn trẻ ùa theo 
Dắt nhau lả tả hò reo rộn ràng 
Nắng chiều rũ xuống mênh mang 
Líu lo sáo đậu trên tàng Đá Đôi 
Khe sâu nước vọng bồi hồi 
Mái rêu Nghè Nấm lợp trời nhung xanh 
Đường viền sỏi đá quanh quanh 
Chốn xưa đã hiện nét tranh lạc hà (2830) 
° ° ° 
Ngực mừng tưởng vỡ tan ra 
Nàng truyền xuống ngựa thướt tha bộ về 
Bước chân nẫu nhớ mùi quê 
Đất truyền nhựa mạch, mừng tê tái người 
Lòng rạo rực hé môi cười 
Mở ra bát ngát hơn mười Kinh Thơ 
Cỏ cây tươi mắt xanh chờ 
Núi non chín ửng phất phơ ráng hường 
Ngồi trên cội đá ven đường 
Áo Kiều lay vạt tà dương nhiệm màu (2840) 
Nhìn trời ngâm khẽ đôi câu 
Ý thơ theo bướm quanh đầu vờn bay 
Cỏ cây ngan ngát hương say 
Đồi Thu chợt cánh chim bay hoạ đờn 
Tiếc đời hoài mấy năm hơn 
Tìm nơi bọt nổi mây vờn hồi sinh 
Nhãng quên Báu Ngọc trong mình 
Là quê hương kết muôn hình hào quang 
Bày chi địa ngục thiên đàng 
Bên trong sự sống mênh mang tràn đầy (2850) 
Bây giờ mới hiểu lời Thầy 
"Cỏ hoa đâu chẳng hiện bày chân ngôn 
Con người cứ mãi xa nguồn 
Đày mình giữa những chán chường quẩn quanh 
Cho người tu luyện rừng xanh 
Thầy xin cày cuốc tựu thành tự nhiên 
Mặc ai tìm kiếm Tây thiên 
Riêng ta biến cái não phiền thành hoa 
Hoài công sớm tối ê a 
Chi bằng hái cúc ươm trà ngẫm thu (2860) 
Tu mà chẳng biết mình tu 
Nhập cùng mối Đạo cho dù rong chơi 
Thân tự tại giữa đổi dời 
Một lòng vô bệnh – trí ngời lên cao 
Ngâm thơ giữa cõi trần lao 
Dù cho vọng niệm khác nào Như Lai 
Một khi minh triết xa người 
Còn chăng giả tướng giữa nơi hồng trần 
Phân chia này nọ, ngã, nhân 
Càng tìm càng vạt gót chân lạc nguồn" (2870) 
Bao năm trí bệnh đoạn trường 
Truân chuyên đã trải, đau thương đã rồi 
Dòng dòng nước mắt nổi trôi 
Bây giờ mới mở chân trời uyên ngôn 
° ° ° 
Tóc nàng dài sợi hoàng hôn 
Cò bay dằng dặc cô thôn gọi chiều 
Một vùng mây núi đăm chiêu 
Dưới chân giun dế nở đều trường ca 
Kiều lên trang trại quê nhà 
Mảnh trăng theo hiện lên tà áo lơi (2880)


XXIV. Lắng tiếng chim vang 

Bức thứ hai mươi bốn: 
(Kiều đi hành hương đền Mẫu – ngôi đền 
mang nhiều kỉ niệm từ thủa ấu thơ) 



Dưới tàng đào lý hồng phơi 
Kiều ngồi rửa mặt chim khơi tiếng lòng 
Cánh hoa rụng trắng thau đồng 
Đáy in thăm thẳm từng không xám chì 
Sớm nay má ửng xuân thì 
Nét mày dìu dịu, đường đi não nùng 
Vai thon óng giải tơ nhung 
Vương qua gò yếm một vùng hạ xanh 
Tay lan trắng muốt đôi nhành 
Vớt hoa làm rụng hạt long lanh trời (2890) 
Lim dim nét mắt mê người 
Dịu đưa khăn lụa cổ ngời nhành cao 
Trên đào hoa dưới má đào 
Hai bông đua sắc nghiêng vào thau hương 
Ngó hoa mây cũng ửng hường 
Vờn đôi bướm nhỏ bên tường nịnh hoa 
° ° ° 
Xóm gần cho đến thôn xa 
Mấy ngày kéo đến đầy nhà viếng thăm 
Xa quê biền biệt bao năm 
Trùng hoa đất cũ – âm thầm sầu bi (2900) 
Lối xưa – rêu lục xanh rì 
Tường xưa – hồng rụng hoa Ty Tâm gầy 
Nàng về - lại trắng hoa bay 
Hoa đơm vì một nét mày Tố Nga 
Gót ai tía nở nụ cà 
Sáng lên dạo núi, chiều ra thăm đồng 
Áo hoa, nón giắt nụ hồng 
Chân dài, thắt một lưng ong dịu dàng 
Sen hường đôi cánh mơ màng 
Nghiêng mình giặt lụa, suối vàng dòng lơi (2910) 
Có trưa ngồi vẽ mây trời 
Có đêm đọc sách trăng rơi vàng thềm 
Ngoài song liễu lả lơi mềm 
Ngừng tay nàng tưởng áo xiêm ai về 
Nhìn hoa trĩu cánh trăng khuya 
Tắt đèn lặng ngắm sao chia mấy vần 
Có chiều vời trẻ hương lân 
Qua hiên dạy hát ngoài sân gió chờ 
Quây quần bên ánh trăng thơ 
Ôm đàn rung mấy nhánh tơ hoàn đồng (2920) 
Nàng riêng ở mái thư phòng 
Thơ treo đầy vách một lòng thênh thang 
° ° ° 
Sớm nay sắm sửa quả nhang 
Dâng hoa đền Mẫu thăm tàn lan xưa 
Thuở nào cánh rụng như mưa 
Nhặt về ướp kín trang thơ khói vờn 
Tục truyền chân Ngũ Nhạc Sơn 
Có đầu gối đá son hường màu da 
Một hôm trẻ đánh trâu qua 
Lưng non vẳng tiếng hát ca trẻ nào (2930) 
Tìm lên đầu gối đá cao 
Ngồi đây một vị hồng hào uy nghiêm 
Chung quanh hoa bướm chao nghiêng 
Lưng trời thêm tán mây viền rũ che 
Trẻ trâu Đa Cóc gần kề 
Tranh đem cờ quạt rước về thôn trang 
Trẻ Yên Mô lại xa làng 
Vòng tay làm kiệu vội vàng rước đi 
Bẻ lau làm ngọn linh kỳ 
Nón xâu cán lọng khác gì tàn hoa (2940) 
Cung nghinh vừa đến rừng nhà 
Giải mây đầu núi hoá ra kiệu rồng 
Thần Nhi cất tiếng cười trông 
Bay lên vút cánh chim hồng khuất mây 
Trẻ nhìn như ngất như ngây 
Chạy về đem chuyện tỏ bày trước sau 
Thôn làng người vội kéo nhau 
Ra coi một chiếc tán màu còn bay 
Thế rồi ghi sự tích này 
Dựng ngôi Đền Thánh tháng ngày lửa hương (2950) 
Riêng nơi đầu gối son hường 
Dựng thành Cửa Mẫu trầm vuơng sớm chiều 
Thềm lên đá xếp cheo leo 
Chung quanh tùng bách gió reo nhạc đàn 
Giữa sân trồng cội ngọc lan 
Bốn mùa hoa trải vô vàn cánh rơi 
Hành hương vừa tới chân đồi 
Mùi bông thanh khiết trao người phương xa 
° ° ° 
Chị em thuở chửa lìa nhà 
Hay thường theo mẹ dâng hoa cảnh này (2960) 
Kể từ gặp trận cát bay 
Cành Xuân vùi dập lắt lay bẽ bàng 
Nhiều đêm thoảng giấc mơ vàng 
Bước theo theo mãi con đàng quanh co 
Rừng xưa chim vẫn chuyện trò 
Thềm phơi quạnh quẽ, mái co lạnh lùng 
Dấu chân buông giữa mông lung 
Mà sao lạc mãi trong vòng khói sương 
Ngôi đền đôi mái trầm vương 
Tàn lan xanh đó bên đường chưa phai (2970) 
Tỉnh ra thương phận lạc loài 
Tưởng hoa còn rụng trên vai liễu mềm 
Thềm rêu tím ngắt ngôi đền 
Hồ như vóc dáng Mẹ hiền chờ ta 
Trách con nỡ bỏ quê nhà 
Trách sông chia cách đường xa lối về 
Cho lan nọ nhớ lan kia 
Một trăng vàng bủng sầu chia mấy lòng 
Cho dầu dãi nhớ long đong 
Buồn tê đầu lối, sầu hong cuối đường (2780) 
° ° ° 
Bây giờ lãng đãng qua nương 
Sách hoa theo vượt dặm trường phiêu diêu 
Chừng nghe mây nổi theo Kiều 
Mây bao nhiêu dặm bấy nhiêu dặm tình 
Đồi hồng chín mọng bình minh 
Bờ Tu, Trại Sắt ẩn mình sương bay 
Khoai môn xanh lẫn ngàn cây 
Qua đồi dứa đỏ nghe bầy nhạn xao 
Nương lang tiếp ruộng thuốc lào 
Lối qua Oẻ Ngựa, lối vào Yên Mô (2790) 
Chim Rừng Cấm hót líu lô 
Lẵng ai sách cả sương mờ chon von 
Chập chờn bướm trắng leo non 
Áo bay bạch lộ chân son tóc thề 
Bao năm bước lạc cửa mê 
Giờ như mây nổi hồn quê bừng bừng 
° ° ° 
Dấu chân khắc lối in rừng 
Nhựa thơm đất mẹ chôn từng dấu đi 
Thôn xa mấy cụm xanh rì 
Mái đền cong vút uy nghi hiện dần (3000) 
Tàn hoa trắng cội phù vân 
Tiếng chim khuyên rụng trong ngần như sương 
Bao năm vẫn một mùi hương 
Trước sau thơm đến dị thường trong ta 
Phải chăng hoa của quê nhà 
Thơm trong hoài niệm mới là mãi tươi 
Hoa cao quý bởi lòng người 
Mượn hoa sánh cái tuyệt vời hồng nhan 
Hương ơi! Thơm nhé đừng tan 
Đừng như lò biếc, đã tàn hương mơ (3010) 
Tay Kiều vuơng vấn ngàn tơ 
Nghe trong dáng dấp ngày thơ ấu về 
Tưởng khi mái tóc vương thề 
Nghiêng vai bạch thạch thơ đề trăng sao 
Tưởng khi gò má bông đào 
Áo bay hoàng hạc, ý vào hồn mây 
Ngày xưa cô bé qua đây 
Hoa nao dệt ý, cỏ ngây gợn tình (3020) 
Là hoàng hôn lẫn bình minh 
Cho ta tưởng suối, cho tình tự hương 
Núi non mở lá thần chương 
Hoa phô bóng Thuý, khói vương dáng Kiều 
Từ trâm cài tóc mây chiều 
Dặm Xuân, dại lỡ gieo liều gót hoa 
Bây giờ lắng gợn thu ba 
Cỏ cây lại trổ màu ra thuở nào 
Khám thờ bay sợi trầm cao 
Áo tơ rơi hạt nắng đào còn run (3030) 
Vẳng nghe chuông tự Chùa Hun 
Hồ đang vượt thức mây un ngọn đèo


XXV. Kiều ngồi ven suối 

Bức thứ hai mươi lăm: 
(Kiều thăm lại mộ Đạm Tiên, bài thơ tức cảnh 
khắc trên cây ngày xưa, bay lên bốn con bướm, 
đậu trên bàn tay nàng như một đoá hoa) 



Kiều Thu lá úa bay vào 
Tiểu khê dải nước trong veo một dòng 
Ai đem tơ lụa ra hong 
Gió bay lụa xuống vàng lòng xuân thu 
Đôi bờ liễu rũ vi vu 
Soi khuê dung mãi – mãi từ bao Xuân 
Chờ ai tàn cuộc phù vân 
Lá bay tưởng tóc, bướm vần tưởng hoa (3040) 
Dòng Thu biền biệt quan hà 
Mãi đi riêng để liễu sa nụ vàng 
Đất xưa mộ nấm hàng hàng 
Bây giờ cỏ nội lau ngàn lất lây 
Cành lê trắng cũng hao gầy 
Tưởng hồn lưu lạc ngó mây đoạn trường 
Tàn tàn mộ quạnh khói hương 
Hiu hiu gió thổi nắm xương trở sầu 
Liễu xanh lả ngọn bên cầu 
Xuân thu chất chứa trên đầu mấy mươi (3050) 
Bẽ bàng thay đoá cúc tươi 
Cỏ cây như thế - mỉm cười chi hoa 
Biết đâu ngàn vạn năm qua 
Mối tình cây cỏ cùng ta kết nhiều 
Nên Thu hoa sắc tiêu điều 
Vì Thu ta cũng đăm chiêu võ vàng 
Buồn ra bãi mộ thăm nàng 
Thấy chi, trong đám đoạn tràng lá bay 
Tiểu khê cỏ vẫn xanh dày 
Mùa Thu chết đuối bóng mây giữa dòng (3060) 
Sầu dâng chan chứa trong lòng 
Mặt trời gác núi như vòng ngọc rơi 
Tiếng cò lẫn giữa mù khơi 
Về Nam cánh trắng muôn đời nổi cao 
° ° ° 
Kiều ngồi ven suối nao nao 
Sóng xanh tưởng hội xanh nào cuối Xuân 
Chốn này xưa nhớ dừng chân 
Khóc mồ bạc phận khắc vần thơ gieo 
Nước in kiều lẫn bóng Kiều 
Vó câu ngựa giục ít nhiều hương rơi (3070) 
Áo tơ thưa đẫm tơ trời 
Trời sa khói tím, suối dời dòng cam 
Một làn Xuân gợn mang mang 
Mắt giao sóng mắt mơ màng liễu tơ 
Đoạn trường từ mấy vần thơ 
Thân cây, trâm khắc chưa mờ sương phong 
Sóng thiêng thưở nổi hai lòng 
Mười lăm năm buộc bốn vòng tơ oan 
Kể từ có kẻ cáo gian 
Bánh xe đưa chiếc hoa tàn vụt bay (3080) 
Lầu xanh giam tấm thu gầy 
Hết tay lừa lọc lại tay lọc lừa 
Lỡ làng đành phận tơ mưa 
Giữ chi liễu thải hoa thừa mặc ai 
Thời gian gió dạt mưa dài 
Trời cao nguyện trả thân này cho qua 
Nghiệp đàn trót nợ âm ba 
Hết vào vực lửa lại sa bẫy ngầm 
Ngón tay mười mạch lệ thầm 
Ôm thân đi giữa cát lầm gió bay (3090) 
Đầu đường trôi nổi bóng mây 
Sau lưng còn lại những ngày vàng hoe 
Còn viền trăng đó bạn bè 
Nằm đêm dõi mộng chờ nghe gió trời 
Người cho chẳng được làm người 
Biến ra một thứ đồ chơi lạ lùng 
Ruột tằm quặn quại năm cung 
Bốn dây rên xiết gấm nhung đổi màu 
Thôi thì ngọc trả dòng châu 
Chút tình xin gửi đáy sâu Tiền Đường (3100) 
Thì thôi cho dứt đoạn trường 
Cầu qua nhịp thuý, lệ vương nhạc vàng 
Sông xanh sổ trải nguyên trang 
Tên ai lác đác đôi hàng sao rơi 
Bóng in tưởng dấu hoa ngời 
Dòng sông ảo hoá gọi mời thiên thu 
Còn chi biển hận non thù 
Sao giăng đáy nước, sa mù đầu non 
° ° ° 
Chừng nghe sông hát véo von 
Âm dư ngày cũ trong lòng hoà nhau (3110) 
Tơ xưa đan lưới ưu sầu 
Giờ đây hoá hiện nhịp cầu qua sông 
Sao rơi lấp lánh giọt hồng 
Người gieo mặt sóng bềnh bồng như sao 
Xuôi dòng dịch hoá nao nao 
Cửa ra ảo ảnh, lối vào như nhiên 
Thân ta một hạt lệ thiêng 
Đoạn truờng sổ quý thấm riêng một tờ 
Khởi từ lạch suối xanh mơ 
Rồi trôi nổi đến bên bờ sông Thương (3120) 
Bốc lên thành sợi mây hường 
Sợi mây cất cánh thiên hương trở về 
Bây giờ bên ngọn tiểu khê 
Mây tan thành hạt bồ đề hào quang 
° ° ° 
Bao nhiêu nghịch cảnh bên đàng 
Khiến ai đọng ngọc kết vàng đó thôi 
Sóng sông – giúp vượt cầu đời 
Sóng đàn – giúp vượt cầu hơi bảy màu 
Chẳng bờ trước, chẳng bờ sau 
Lại qua tim óc - một bầu trời xanh (3130) 
Bước lên – mỗi bước đẹp lành 
Năm châu hoà hợp – tự thành Một Hoa 
Thông linh Đất Mẹ, Trời Cha 
Hợp đoàn chim Lạc hót ca rộn ràng 
Đổi thay chuyển nghiệp trần hoàn 
Bốn phương Vuông Chỉnh – Một Đàng Tròn lên 
° ° ° 
Cây xưa Kiều khắc thơ tiên 
Giờ bay đàn bướm dịu hiền phất phơ 
Bốn con như bốn dòng thơ 
Quẩn quanh vờn mãi bên bờ vai thon (3140) 
Kiều đưa năm ngón tay son 
Lạ thay đàn bướm có con đậu vào 
Rung rung cành nguyệt cánh đào 
Nở trên cung mệnh khác nào dâng hoa


XXVI. Báo ngày xuân quang 

Bức thứ hai mươi sáu: 
(Kim Trọng về thăm Kiều, dừng cương ngó dòng tiểu khê, 
chợt bao nhiêu tiếng đàn Kiều, theo nước chảy, 
hoá thành bản Vô Thanh, khiến Kim thấy được hào quang trên dung nhan Thuý Kiều) 



Cuối Thu theo gió tìm qua 
Bước đi là một giẫm nhoà nhạt sương 
Bạch đàn gỗ trắng bên đường 
Đàn chim khép cánh bụi đường quan san 
Đồi cao nở đoá hôn hoàng 
Tảng mây lấp mặt trời vàng vàng hoe (3150) 
Cồn rừng ung ủng khói che 
Diều hâu báo rét tiếng nghe mơ hồ 
Nẻo xa tím ngắt cỏ bồ 
Sương vàng lãng đãng bóng cô thôn chiều 
Quá quan Kim vượt tìm Kiều 
Bâng khuâng băng núi, tiêu điều vượt sông 
Nhớ người cương buộc chùm bông 
Áo xanh nắng nhạt, ngựa hồng gió phai 
Riêng trăng cật ngựa u hoài 
Cỏ xanh xanh tưởng dấu hài cố nhân (3160) 
Đêm thâu giục giã trăng gần 
Ngày dài vó soãi phù vân dập dồn 
° ° ° 
Về qua muôn dặm hoàng hôn 
Dừng cương Kim ngó cố thôn Thạch Đào 
Đất xưa Đố lá hội nào 
Hoa nay nhớ chuyện hoa nao mỉm cười 
Liễu xanh tha thướt dáng người 
Thầm trông dạc vóc, ngó vời gầy hoa 
Ngày nào mắt đắm thu ba 
Nước xuôi theo tóc la đà cài hương (3170) 
Tấc lòng lẫn nhớ pha thương 
Tiểu khê ơi! Sóng bên đường về đâu 
Một dòng chảy miết thiên thâu 
Còn in xanh chuyện tình đầu thơ ngây 
Chàng nhìn giải nước lùa mây 
Khe xanh biêng biếc hoá dây đàn lòng 
Sóng ngoài hoà với đàn trong 
Trên yên tượng ngọc mơ mòng năm cung 
° ° ° 
Tơ nào chén lệch trăng rung 
Nghiêng hiên Lãm Thuý tơ chùng sao rơi (3180) 
Tơ nào suối lượn chơi vơi 
Hương dâng sợi cũ đàn lơi dòng huyền 
Tơ nào hạc cất trầm lên 
Dưới hoa sương rụng, đầu thềm khói giăng 
Tơ nào rực rỡ hiên trăng 
Ba lòng neo một bến hằng đêm xưa 
Con tim rạo rực âm thừa 
Bây giờ rung với nước xưa một nhành 
Bản hoà bát ngát Vô Thanh 
Đoá phù dung mộng đã đành trắng tay (3190) 
Mơ hồ như một hoa dây 
Theo hương về cội, bao ngày xuân quang 
° ° ° 
Tiếng ngân đã bặt lòng đàn 
Hồn Kim thanh thoát trong ngàn liễu tơ 
Bếp hồng cao ngọn khói mơ 
Mùi rơm chiều thoảng bao giờ chưa quên 
Ngựa dài vó giục đường lên 
Mặt trời đỏ thẫm ngọn liềm đá trau 
Dáng Kiều thấp thoáng vườn rau 
Có con mèo mướp theo sau quện hoài (3200) 
Chiều vàng bướm cũng vàng bay 
Vờn trên hoa cải vàng dài bông hương 
Hoàng hôn phủ tóc Mỵ Nương 
Hào quang trời ửng thêm hường má Xuân


XXVII. Tìm động hoa vàng 

Bức thứ hai mươi bảy: 
(Bốn người lẩy Kiều, canh bánh chưng đêm nơi thôn Bạch Vân 
(Quê hương Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm). Nhà sư kể chuyện vui 
chờ xuân - huyền thoại một bài thơ nơi Chùa Hương Tích, vì nghiệp luỵ 
thử thách đã nhập vào đời Kiều - đi suốt Đoạn trường, 
rồi thăng hoa trong Việt Tính Dân Tộc) 



Đêm khuya nơi xóm Bạch Vân 
Bốn người luộc bánh chưng xuân chuyện trò 
Lửa bừng lách tách reo hò 
"Chú miêu" nằm cạnh co ro sưởi mình 
Một chàng mảnh khảnh thi nhân 
Một người áo vải nông dân hiền từ (3210) 
Một Chiến sĩ, một Thiền sư 
Vây quanh bếp lửa hồng như ráng chiều 
° ° ° 
Thuốc lào nhả khói đăm chiêu 
Rung đùi sư bác lẩy Kiều ngâm nga 
"Thiện căn ở tại lòng ta 
Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài" 
° ° ° 
Thầy sao lắm vẻ cảm hoài? 
Chờ Xuân bạn kể nghe vài chuyện vui 
° ° ° 
Thầy se điếu xuống cả cười 
Thì dư nước mắt khóc người đã sao (3220) 
° ° ° 
Rằng: Xưa có gã chiêm bao 
Ngâm thơ rỗng bụng tạt vào chùa Hương 
Ăn nhờ đôi bữa rau tương 
Một đêm – chuông rụng trăng vương gió ngàn 
Lòng chàng siêu thoát mênh mang 
Sáng lên tìm Động Hoa Vàng chen mây 
° ° ° 
Gối tay ngủ cỏ nằm say 
Tỉnh trông – thì lách lau dày lối ra 
Giật mình thấy một chùm hoa 
Nhành lan Bạch Ngọc bên toà tịch tâm (3230) 
Ý thơ nổi dậy khôn cầm 
Cảm lan dệt một trường ngâm xuất thần 
° ° ° 
"Kiếp hoa trắng ngát hồng trần 
Nụ dài tưởng bút thi nhân đại đồng 
Dù nơi động núi sương phong 
Nhuỵ lan vẫn toả tấm lòng tinh anh 
Lá dài cong nhịp cầu xanh 
Vượt qua đoạn lệ trổ nhành hoa Tiên 
Thiên hương hé nụ cười hiền 
Biến thân qua vạn bút nghiên hoá Người" (3240) 
Thần Nhân ra khỏi cuộc đời 
Tim đông thành ngọc, vọng lời ngân xa 
° ° ° 
Thần Thơ quyện với Hồn Hoa 
Vào nàng con gái nguyệt ngà họ Vương 
Cỏ cây quanh động chùa Hương 
Hoá thân làm nhịp gió sương đời Kiều 
Nào là Mã, Sở gian điêu 
Huyện quan Kim Trọng, đại triều Hồ Tôn 
Cũng vì diệu dụng càn khôn 
Cho bài thơ tỉnh mê hồn bay cao (3250) 
Cho Thơ hoà với trăng sao 
Cho trăng sao hoá chiêm bao cõi Người 
Khí thiêng sông núi nên lời 
Cỏ cây giam kín một đời tinh anh 
° ° ° 
Thần Nhân mới ứng thân thành 
Một chàng Từ Hải áo xanh bạc màu 
Giang hồ bụi nhuốm hàm râu 
Đón bài thơ nọ khỏi cầu đau thương 
Lại vào sư bác Văn Chương 
Đem Kim Cương cắt tơ vương giấc vàng (3260) 
Cho Thơ hoà với mênh mang 
Cho mênh mang đọng hạt đàn Vô Thanh 
Đất dày nhập với trời xanh 
Đoạn trường xưa hoá trường thành lưng mây 
Áo thơ hồng quả tươi cây 
Tiếp thu lẽ sáng chan đầy Mạch linh 
Muôn loài mở cuộc hồi sinh 
Dựng lên khắp cõi bình minh Đại hoà 
Kiều giờ là cỏ là hoa 
Đường gân mạch máu xương da cũng nàng (3270) 
Bài thơ Thoát vận đoạn tràng 
Hoá thành hạt ngọc nghiêm trang Trời Người 
° ° ° 
Nhà nông nghe chuyện mỉm cười 
Xắn tay vớt bánh Chưng ngời lá Vuông 
Mặt trời Tròn bánh Dầy hương 
"Tròn Vuông Trời Đất" - lên đường sáng soi 
Trẻ reo pháo nổ từng hồi 
Bạch Vân Am ngát lưng đồi trầm mai 
Buồng trong thoảng tiếng ru hoài 
"Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài tan" (3280) 
Mây bay trời dựng tàn vàng 
Gió cao tung cánh Phượng hoàng núi Đông 
Rừng xa lá cuốn bềnh bồng 
Dáng như Sư tử dựng lông vươn mình 
Đất trời thắm lại Minh Minh 
Dân gian mở hội thái bình bốn phương 
° ° ° 
Thánh Nhân quẩy gói lên đường 
Bước chân Tự Chỉnh áo vương màu trời 
Dáng xa như úp chuông ngời 
Tiếng ngân đất trổ tuyệt vời trăm hoa (3290) 
° ° ° 
Non Hồng núi Tản chim ca 
Sông Hà sông Cửu la đà dòng xuôi 
Núi sông chiếu diện tinh khôi 
Ngọc lên mặt biển, vàng trôi mạch rừng 
Mừng Người Trời Đất tưng bừng 
Ruộng Lam trâu kéo một vừng long lanh



nguồn: thivien.net